Thứ Ba, 16 tháng 7, 2013

Ba ví dụ về NGHỆ THUẬT TẢ CẢNH CỦA NGUYỄN DU

BA VÍ DỤ VỀ NGHỆ THUẬT TẢ CẢNH
CỦA NGUYỄN DU

Nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du trong Truyện Kiều là một vấn đề lớn, đủ cho một công trình nghiên cứu công phu. Trong bài viết ngắn ngủi này, tôi chỉ muốn dừng lại ở một vài thí dụ mà tôi tâm đắc, muốn trao đổi với bạn đọc.

1- Tôi nghĩ rằng, khi tả cảnh, trong nhiều trường hợp, Nguyễn Du học theo phép điểm huyệt chữa bệnh của các thầy thuốc Đông y. Trước khi chữa, thầy thuốc phải tìm cho được cái huyệt của bệnh, sau đó chỉ cần điểm huyệt bằng đầu ngón tay hoặc mũi kim thì tức khắc bệnh khỏi. Tương tự thế, khi tả cảnh, Nguyễn Du tìm được cái huyệt của cảnh, nên không cần nhiều lời. Những câu thơ điển hình tả mùa xuân, mùa thu như: Cỏ non xanh tận chân trời / Cành lê trắng điểm một vài bông hoa, hoặc: Long lanh đáy nước in trời / Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng… cũng được tả theo thủ pháp ấy nhưng vì chúng quá quen thuộc nên tôi không muốn dừng lại để phân tích. Tôi đi vào câu thơ ít phổ biến hơn.
Trong tiết dạy hướng dẫn cho một lớp bồi dưỡng sáng tác, nói về nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du, tôi đã yêu cầu mỗi người về nhà viết một đoạn văn hoặc mấy câu thơ để tả ngôi nhà đã bị đốt cháy. Và tiết học hôm sau tôi đã có trong tay "tác phẩm" của gần 40 người. Chưa quan tâm về nghệ thuật câu chữ, tôi muốn biết các học viên đã dùng những chi tiết gì để tả. Sau đó đem so sánh với các hình ảnh mà Nguyễn Du đã dùng trong hai câu thơ:
Bước vào phòng cũ lầu thơ
Tro than một đống, nắng mưa bốn tường.
Cả lớp ai cũng phải tấm tắc khen cụ Nguyễn Du tài, vì đã điểm đúng cái huyệt, cái đặc trưng nhất của ngôi nhà cháy: tất cả mái nhà và đồ đạc đã biến thành tro than một đống, bốn tường không có thứ gì che chở nên phơi mưa phơi nắng. Đồ đạc biến thành tro than thì nhiều học viên tả được, nhưng không một người nào chạm tới cái cảnh"nắng mưa bốn tường" sờ sờ trước mắt mà chỉ cần đọc lên, kết hợp với "tro than một đống" thì không còn gì đầy đủ bằng khi tả ngôi nhà đã bị đốt. Trong hai câu lục bát, câu đầu Cụ dùng để kể chuyện Thúc Sinh bước vào nhà xưa, chỉ tám chữ của câu sau để tả, mà cảnh nhà cháy hiện lên rõ ràng, đầy đủ hơn khi chúng ta dùng đến cả một trang văn. Là vì cụ tả cảnh theo lối điểm huyệt, chỉ cần lảy đúng huyệt là cảnh đó hiện lên vừa điển hình, vừa đầy đủ, còn chúng ta tả cảnh theo lối đấm tầm quất, cứ đấm lung tung lên, chẳng biết đâu là huyệt và thậm chí có khi đã đúng huyệt rồi, không biết dừng lại, còn đấm tiếp, làm mất tác dụng của huyệt đó. Cũng cần lưu ý rằng, Nguyễn Du tả cảnh này không phải bằng đôi mắt của tác giả, mà qua cái nhìn của chàng Thúc Sinh: khi bàn chân chàng vừa bước tới, thì cái trước tiên đập vào mắt chàng là một đống tro than. Ta như thấy được lúc đầu chàng nhìn xuôi, sau đó mới thẫn thờ quay đầu nhìn quanh và ngước nhìn lên, ngao ngán trước cảnh bốn tường chơ chỏng không còn gì che chở. Như vậy, Đại thi hào chỉ dùng mấy chữ, không những làm hiện lên cảnh một ngôi nhà cháy trụi điển hình, mà người đọc thấy được tâm trạng của người trong cuộc, tức chàng Thúc Sinh lúc bấy giờ.



2 - Nghe lời khuyên của sư Tam Hợp, Giác Duyên về dựng một ngôi nhà lá bên sông Tiền Đường và thuê người đón vớt Thuý Kiều. Tất nhiên ngôi nhà này nằm ở chỗ vắng vẻ, yên tĩnh (nơi ở của sư mà). Bây giờ bạn đọc chúng ta hãy tả ngôi nhà này xem sao? Có thể tả bằng thơ hoặc bằng văn xuôi. Trước mắt chúng ta hiện lên cảnh sông Tiền Đường tĩnh lặng, có một ngôi nhà của sư lợp bằng lá cỏ… Thế là những từ như vắng vẻ, yên tĩnh, lung linh, soi bóng…hiện lên trong ngôn ngữ chúng ta. Tôi tin rằng khi định tả ngôi nhà này, những từ vừa rồi cũng đã xuất hiện ở cụ Nguyễn Du và chính cụ cũng biết được những từ đó có thể xuất hiện ở những người khác như cỡ chúng ta. Nếu Cụ là nhà thơ bình thường thì có lẽ những từ đó đã xuất hiện trong Truyện Kiều khi tả ngôi nhà này. Nhưng là Đại thi hào, Cụ phải vượt xa cái nhìn thường tình của người thường, không dùng những từ quá quen thuộc mà người khác dùng để tả cảnh, Cụ phải có cách nhìn khác, từ khác, dù vẫn tả cảnh ấy. Thế là Cụ viết:
Đánh tranh chụm nóc thảo đường
Một gian nước biếc, mây vàng chia đôi.
Câu thứ nhất mang chức năng kể, một yếu tố không thể thiếu được trong truyện thơ. Sự kể này mới kỳ diệu làm sao, chỉ sáu chữ mà nói được bao điều về ngôi nhà cỏ ấy, đặc biệt là hai chữ chụm nóc, không chỉ kể chuyện làm nhà mà một phần làm người đọc hình dung hình dáng ngôi nhà: Có lẽ đây là một nhà tạm do hai mái chụm lại mà thành. Sự thần kỳ nằm ở câu bát: Một gian nước biếc, mây vàng chia đôi. Như vậy với tám chữ, Nguyễn Du không chỉ tả nhà mà tả trời, tả sông, bao chứa tất cả những điều chúng ta đã hình dung, đã muốn tả; bao chứa tất cả những từ vắng vẻ, yên tĩnh, lung linh, soi bóng nhưng tác giả không hề dùng một từ nào trong đó. Từ ví dụ này, người làm thơ chúng ta có thể rút ra được bài học là tránh xa sự thường tình, không nói điều mà những người khác có thể nói được.

3 - Nghệ thuật nén chữ trong câu lục bát được cụ Nguyễn Du thường trực quan tâm và thể hiện khá đắc địa trong nhiều câu tả cảnh. Ai cũng biết rằng, khi làm thơ tự do, nếu ý nhiều thì câu thơ dài ra, ý ít thì câu thơ ngắn lại. Nhưng với thơ lục bát, số chữ trong câu không đổi, nếu nhà thơ không chắc tay, câu thơ thường bị lỏng. Nói có hình tượng, làm thơ tự do giống như đựng đồ đạc vào trong túi vải, còn làm thơ lục bát giống như đựng vào hộp các tông. Túi vải xẹp hay căng tuỳ theo số đồ đạc, còn hộp các tông thể tích có sẵn, đòi hỏi người xếp đồ đạc phải chú ý để trong cùng một loại hộp như nhau, làm sao mình đựng được nhiều hơn người khác. Với thơ lục bát, đó là nghệ thuật nén chữ, chèn ý. Trong Truyện Kiều, có nhiều câu thơ Nguyễn Du đã lèn cho không hề có một khoảng trống, hay nói cách khác, cụ đã đựng được số đồ đạc đạt kỷ lục Ghi-nét trong hộp-các-tông-lục-bát định sẵn. Điển hình như câu:

Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung.
Chúng ta chú ý vào câu thứ hai xem tám chữ đó đã vẽ lên được cảnh gì trước lầu Ngưng Bích trong con mắt của Thuý Kiều. Ai chẳng hiểu bình thường thì bao giờ trăng cũng ở xa hơn núi, nhưng trong hoàng hôn ấy, núi non như lùi xa ra, vầng trăng như xích gần lại để cùng nằm trên một bình diện, cùng "ở chung". Vầng trăng ấy lẽ nào chẳng nhói lên trong lòng nàng Kiều cái "Vầng trăng vằng vặc giữa trời" hẹn ước, nên chỉ sau đó vài câu, nó xui nàng "Tưởng người dưới nguyệt chén đồng"…Chưa nói chuyện nhà thơ phải có con mắt tinh tế thế nào mới có thể nhận ra điều đó, ngay cái việc lèn từng ấy nội dung vào trong một câu thơ thì thật thần tài.
Chuyện lèn chữ kiểu này chúng ta thấy rất phổ biến trong Truyện Kiều, làm cho hộp-các-tông-lục-bát của Nguyễn Du không bao giờ có khoảng trống.
Khi làm thơ lục bát, tôi luôn có ý thức học Đại thi hào, cảnh giác với những khoảng trống trong hộp các tông. Ví như bài Bên mộ cụ Nguyễn Du, lúc đầu tôi viết: Tưởng rằng mộ của Đạm Tiên, sau đọc lại, tôi nhận ra một khoảng trống khá to, cần lèn ý mới và viết thành: Tưởng rằng phận bạc Đạm Tiên thì hai chữ phận bạc giống như một khúc củi mới chêm vào cho bó-củi-lục-bát thêm chắc.
Nói về cái hay của Truyện Kiều thì chẳng bao giờ đủ. Tôi tạm nêu ba ví dụ trên, và tin rằng bạn đọc còn nêu được rất nhiều ví dụ khác trong" lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu" của Truyện Kiều để minh chứng cho thiên tài của cụ Nguyễn Du.

Vương Trọng

See Translation
1Unlike · ·

2 nhận xét:

  1. Người Nho Quan Alúc 09:09 17 tháng 7, 2013

    Vũ Nho trang chủ ơi, bác Vương này bình hay quá

    Trả lờiXóa
  2. Cám ơn bạn chia sẻ. Vì hay nên VN mới xin phép bác Vương bê về đây!

    Trả lờiXóa