TẢN MẠN
PHƯƠNG NGỮ LÀNG TRÈM
ĐÔNG CHI
Nội
trong huyện Từ Liêm này, từ xa xưa, đã thấy có sự khác biệt khá rõ
về phương ngữ (ngôn ngữ địa phương),
phương âm (phát âm địa phương) giữa các kẻ (làng) Noi (Cổ
Nhuế), Giàn, Cáo (Xuân Đỉnh), Đăm (Tây Tựu), Đông Ba, Thượng Cát, Nội,
Mạc, Hoàng (Liên Mạc), Vẽ (Đông Ngạc) Sù, Gạ (Phú Thượng)… với kẻ Trèm
(Chèm - Thụy Phương) ta. Mỗi phương ngữ, phương âm mang màu sắc độc
đáo, thú vị riêng, tạo nên một trong những đặc điểm bản sắc văn hóa
phi vật thể của một làng quê, một vùng điạ linh nhân kiệt. Trong bài
viết nhỏ này, chúng tôi chỉ tự giới hạn bước đầu tìm hiểu một
cách tản mạn, ngẫu hứng và sơ lược về một vài phương ngữ, phương âm
hiện tồn nhưng ít phổ biến ở làng Trèm - xã Thụy Phương ta.
Trước
tiên là cái tên Nôm cổ của làng,
bao lâu nay đã song hành 2 cách
nói - viết đối lập: Trèm và Chèm. Sự khác biệt được tạo bởi 2
phụ âm: ch – tr. Thực ra, một số nhà ngôn ngữ học và dân tộc
học đã khảo sát từ nguyên, chính tả, và lý giải rằng: Tên cổ
của làng ta (Trèm) xuất phát từ chữ p’lem à t’lem; đến thời Bắc thuộc,
tiếng Việt bị Hán hóa cách viết, cách đọc thành Từ Liêm; đến thời nhà Nguyễn (thế kỷ 19), trở thành tên 1
huyện phiá tây bắc tỉnh Hà Nội. Một trong những xu hướng phát âm của
người Hà Nội nói chung, người làng Trèm nói riêng, là nhẹ hóa phụ âm tr, giống như và lẫn với phát âm phụ âm ch. Bởi vậy: Trèm nói thành Chèm. Không chỉ trong ngôn ngữ nói mà dẫn chuyển cả sang ngôn ngữ viết (viết
như nói). Mặc nhiên, không biết tự bao giờ, cách nói - viết Chèm cứ dần chiếm ưu thế và thay thế cách nói – viết Trèm, kể cả các văn bản hành
chính, luật pháp chính thức. Nhưng riêng người viết bài này (dù có
ý kiến cho rằng tôi hay tự gây nhiễu
sự ngôn từ!) vẫn thường hay nói – viết theo cổ nhân (Trèm), ngõ hầu góp phần nhỏ mong
bảo tồn một trong những phương ngữ, phương âm cổ truyền độc đáo của
làng quê yêu dấu.