Thứ Hai, 4 tháng 8, 2025

“VỢ NHẶT” CỦA ANH K...

 

VỢ NHẶT CỦA ANH K... 

     ng_xun_xuyn

“VỢ NHẶT” CỦA ANH K...  

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

*

Anh hơn tuổi, học trước nhiều khóa, lại chơi với nhau khi lão đã ra trường chán chê nên chỉ loáng thoáng nghe chuyện tình duyên của anh lận đận lắm. Mọi người kể, thời sinh viên, anh yêu mê mệt “cô bé” tên Chi, nhưng chẳng hiểu lý do gì mà hai người lại chia tay, anh “khép cửa tình yêu” từ đấy. Bạn bè đồng trang lứa, rồi đàn em sau anh 5 khóa, 10 khóa, 15 khóa... lần lượt rời bỏ cuộc sống độc thân, anh vẫn lầm lũi một bóng đi đi về về căn gác đã mua từ thời trai trẻ.

Thế rồi đùng cái anh yêu. Yêu vội, rồi cưới gấp theo đề nghị của “nhà gái”. Đến dự đám cưới, nhìn cô dâu, lão choáng vì người đâu mà xấu. Cái mặt đã dài lại còn vẹo vọ. Hàm răng đã cái thò cái thụt lại xỉn màu nham nhở. Nói không quá lời, Thị Nở nếu hiện diện có khi nhan sắc nhìn còn dễ chịu hơn, duyên hơn… Quá thất vọng, lão buột miệng, thốt câu: - “Đã nhịn đến từng này tuổi sao lại đi rước hàng tồn kho phế phẩm như thế!”. Bạn bè bấu lão, nhắc: - “Nói khẽ thôi kẻo nhà gái họ nghe thấy, chửi vỡ mặt đấy.”. Rời hôn lễ, lão ghé tai anh nói nhỏ: - “Nhịn bao năm mà lấy vợ xấu thế.”. Anh cười ngất, đấm lưng lão, chửi: - “Thằng khỉ! Chỉ cần anh thấy chị mày trẻ trung, xinh đẹp là oke rồi.”. Mừng cho anh đã có mái ấm gia đình nhưng thật lòng lão vẫn thấy gợn gợn điều gì đó rồi sẽ không ổn với người “vợ nhặt” của anh...

Chủ Nhật, 3 tháng 8, 2025

NGƯỜI QUÊN TUỔI SAY SƯA KẾT NỐI

 

Vũ Nho

NGƯỜI QUÊN TUỔI SAY SƯA KẾT NỐI

                   Cảm nhận cuốn “ BÚT KÝ TRÊN FB” của Nguyễn Đức, Nxb Hội Nhà Văn, 2025

                                PGS.TS. VŨ NHO

          Người xưa năm mươi tuổi đã lên lão, đã muốn buông bỏ mọi việc để hưởng chút an  nhàn. Bây giờ y học tiến bộ, sức khỏe, tuổi thọ con người được nâng cao. Năm mươi tuổi chả mấy ai kêu già. Tuổi nghỉ hưu của nam giới ở nước Việt ta là sáu mươi. Nhiều cụ bảy mươi, tuổi “cổ lai hi” ( xưa nay hiếm) vẫn hoạt động sôi nổi.

          Tôi may mắn được quen các cụ cao tuổi hơn nữa, hơn tám mươi vẫn khỏe mạnh, minh mẫn và hoạt động say sưa. Đó là các thi nhân Ngô Thái, Thang Ngọc Pho, Lương Toán, và Nguyễn Đức với bút danh “Đức kết nối”. Chính vì hoạt đông kết nối FB mà nhà giáo Nguyễn Đức có cơ hội vào Nam, ra Bắc, quen biết các bạn thơ, kết nối các câu lạc bộ thơ ca, tham gia các sự kiện thơ ca ba miền. Kết quả của những chuyến đi không nghỉ, cùng với sự ghi chép tỉ mỉ, thường xuyên thông tin trên FB mà nhà giáo có tập bút kí này.

          Thật đáng khâm phục, sức khỏe, sức làm việc của một cựu nhà giáo văn chương.

          Tác giả tự bạch:

          Được hoạt động trong phong trào thơ ca quần chúng 9 năm ( 2016 – 2025) tôi đã được đi khắp mọi miền đất nước, được gặp nhiều bạn thơ thân thiết, và được tổ chức tham dự nhiều sự kiện thơ ca. Đó là một niềm vui lớn, tạo nguồn cảm hứng để tôi viết được nhiều bài trên Facebook, nhằm ca ngợi những vùng miền được đi qua,  ca ngợi phong trào và các bạn thơ Facebook” ( Lời mở đầu).  Điều đó là một sự thật đáng kinh  ngạc và khâm phục. Chỉ tính năm 2017, Nhà giáo Nguyễn Đức ( Đức kết  nối) đã đi rất nhiều địa phương. “ Tôi đã đến thành phố HCM, Cà Mau, Ninh Thuận, Nha Trang, Quảng Nam và lên Tây Nguyên. Ở miền Bắc tôi tới Việt Trì, Yên Bái, Thanh Hóa, Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình. Mùa hè năm đó tôi vào Huế gặp  nhà thơ Ân Hồ bàn việc xây dựng phong trào.” ( Hội thơ xứ Huế,  tr. 108). Một thanh niên  mạnh khỏe cũng chưa chắc đã có đủ sức  và đủ tiền để đi lại như thế. Trong khi tác gỉa đã 76 tuổi ta.

MỘT CHUYẾN ĐI ĐẦY ẮP NGHĨA TÌNH

       


         

MỘT CHUYẾN ĐI ĐẦY ẮP NGHĨA TÌNH

                  Ghi chép cuả Vũ Nho

Ngày 11 và 12 tháng 7 năm 2025, các thi nhân và Ban lãnh đạo Miền Cổ tích đã có một chuyến đi đầy ắp nghĩa tình về dự giỗ đầu của nhà thơ Phạm Thường Dân, chủ nhân con thuyền thơ độc nhất vô nhị không chỉ tỉnh Thái Bình mà có thể là  cả nước Việt Nam.

Trước đó hai tháng, Trưởng, Phó miền và Trưởng ban cố vấn đã có trao đổi về chuyến đi này. Đã dự kiến sẽ chọn lọc một số bài viết về Miền Cổ tích và thuyền thơ để in coi như một kỉ niệm. Ý tưởng đã thống nhất. Tên gọi của tập cũng được thông qua rất nhanh: THI NHÂN MIỀN CỔ TÍCH VỚI THUYỀN THƠ. Phó trưởng miền, nhà thơ Nguyễn Đình Bắc nhận nhiệm vụ tập hợp bài vở và dàn trang ( Anh đã từng làm cho ba tập Thi nhân Miền Cổ tích 1, 2, 3). Phó trưởng miền đã say sưa, miệt mài làm việc. Có thể nói là làm việc đầy phấn khích và nhiệt tình với nhiệm vụ được giao. Chỉ nguyên một chuyện đưa ảnh vào sách, nhà thơ đã kì công lấy ảnh từ video clip, chứ không dùng ảnh có sẵn chụp từ điện thoại. Số bài ngày càng nhiều. Ảnh cũng phong phú.  Phải chia bài cho các vị trong Ban quản trị hỗ trợ biên tập, chủ yếu là sửa lỗi vi tính.  Xong xuôi. Lại nảy ra một vấn đề : in lưu hành nội bộ để tiết kiệm kinh phí, hay là in có giấy phép, có nhà xuất bản đàng hoàng chứ không “áo gấm đi đêm”? Lại trao đổi và đi đến quyết định: sẽ in có giấy phép đàng hoàng, vì cũng khó có điều kiện để in ấn phẩm nào nữa. Sắp đến thời hạn chót để nộp bản thảo cho nhà in, anh Đình Bắc đã gửi bản mềm cho các thành viên Ban cố vấn và Ban quản trị. Trưởng Ban cố vấn đề nghị cứ đưa in, dù có đôi chỗ không tán thành về bố cục; tuy vậy không dỡ ra sửa lại, vì rất phức tạp. Cố vấn Nguyễn Ngọc Thiện góp ý cần phải có Lời nói đầu. Và anh đã thảo luôn lời nói đầu ngắn, gọn cho tập sách công phu kỉ niệm 13 năm Miền Cổ Tích và giỗ đầu thi sĩ Thường Dân chủ thuyền thơ. Thế là  đến phút chót kịp đưa bản thảo cho nhà in.

ĐỖ CHIÊU ĐỨC giới thiệu

ĐỖ CHIÊU ĐỨC giới thiệu Sửa Thành Ngữ Điển Tích 124 : XÍCH, XUÂN, XUYÊN, XƯỚNG. Inline image XÍCH THẰNG 赤繩 : Xích 赤 là màu Đỏ; Thằng 繩 là sợi Dây. Nên XÍCh THẰNG là "Sợi dây màu đỏ"; còn được gọi là Tơ Hồng, Chỉ Hồng, Chỉ thắm... theo tích Nguyệt Hạ Lão Nhân 月下老人 là Ông già dưới trăng như sau đây : Theo "Tục U Quái Lục" : Vi Cố 韋固 người đất Đỗ Lăng đời Đường, nhân qua chơi Tống Thành, gặp một ông già ngồi dưới ánh trăng đang lật xem một quyển sách và bên cạnh có một cuồn chỉ đỏ. Vi Cố hiếu kỳ hỏi, thì ông già cho biết rằng :"Đây là quyển sổ ghi tất cả nhân duyên của nam nữ trên đời nầy, chỉ cần lấy chỉ đỏ nầy buộc chân đôi nam nữ lại, thì dù cho có ở cách xa vạn dặm hay có thù hằn xích mích gì với nhau thì rốt cuộc cũng sẽ thành chồng thành vợ với nhau mà thôi."... Vì tích trên mà hình thành thành ngữ XÍCH THẰNG HỆ TÚC 赤繩繫足 là Chỉ đỏ buộc chân để chỉ nhân duyên đã được định đoạt sẵn cả rồi. Trong "Cung oán Ngâm Khúc" của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều gọi là "Xích Thằng Vướng Chân" với các câu thơ sau : Ngẫm nhân sự cớ chi ra thế, Sợi XÍCH THẰNG chi để VƯỚNG CHÂN. Vắt tay nằm nghĩ cơ trần, Nước dương muốn rẩy nguội dần lửa duyên. Còn trong Truyện Kiều thì trong đêm thề ước, khi muốn nghe Thúy Kiều gảy đàn mà chàng Kim Trọng đã phải rào đón : Sinh rằng: “Gió mát trăng trong, Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam; Chày sương chưa nện cầu Lam, Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng?” Khiến cho Thúy Kiều hiểu lầm là chàng ta muốn thân cận (để... "nện Cầu Lam" chăng !?), nên mới tỏ thái độ dứt khoát : Nàng rằng: “Hồng diệp XÍCH THẰNG, Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri. Đừng điều nguyệt nọ hoa kia, Ngoài ra, ai lại tiếc gì với ai.” Inline image Còn anh chàng Mã Giám Sinh cũng học theo thói văn chương tao nhã mà lớn tiếng thề thốt khi Vương Viên Ngoại gởi gắm Thúy Kiều trước lúc lên đường đi Lâm Truy : ... Cạn lời khách mới thưa rằng: "Buộc chân, thôi cũng XÍCH THẰNG nhiệm trao. Mai sau dầu đến thế nào, Kìa gươm nhật nguyệt, nọ dao quỷ thần !". Còn trong truyện thơ Nôm khuyết danh "Nữ Tú Tài" thì có câu : Toại lòng hương lửa tưng bừng, Tạm quyền ông Nguyệt, XÍCH THẰNG xe dây. XÍCH TỬ 赤子 là Con Đỏ, chỉ con mới sanh còn đỏ hỏn, Cần được cha mẹ lưu tâm chăm sóc nhiều hơn. Xưa dùng để chỉ dân chúng hiền lành thuần khiết cần được vua quan chăm lo bảo vệ; Nên hễ làm vua làm quan thì phải bết thương dân như thương "con đỏ" vậy. Có xuất xứ từ chương Lâu Ly Hạ sách Mạnh Tư《孟子·离娄下》có câu :“Đại nhân giả, bất thất kỳ Xích Tử chi tâm giả dã 大人者,不失其赤子之心者也"。Có nghĩa : Người làm lớn (vua, quan) là người có tấm lòng xem dân như là con đỏ vậy". Trong bài "Văn Tế Ngạc-Nhi" (Francis Garnier một sĩ quan Hải quân người Pháp bị nghĩa quân chặt đầu ở Ô Cầu Giấy) của cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến có câu : Ông ở bên Tây, ông sang bảo hộ. Ông dẹp Cờ Đen, để yên CON ĐỎ. Còn trong truyện thơ Nôm khuyết danh "Nhị Độ Mai" có câu : Hà Nam vâng mệnh tuần hành, Một phương XÍCH TỬ triều đình trong tay. Inline image XUÂN ĐÌNH 春庭 là Sân trong nhà vào mùa xuân, hoa cỏ xinh tươi đẹp đẽ; Nên Xuân Đình chỉ nơi gia đình họp mặt vui vẻ như trong mùa xuân. Tiễn đưa một chén quan hà, XUÂN ĐÌNH thoắt đã dạo ra Cao Đình. XUÂN ĐƯỜNG 椿堂 : ĐƯỜNG 堂 là cái phòng lớn trong nhà, nơi ngày xưa cha mẹ thường ngồi ở đó như phòng khách hiện nay. XUÂN 椿 là một loại cây to, có xuất xứ từ chương Tiêu Dao Du 逍遥游 trong sách Trang Tử 莊子: XUÂN là một loại cây cao bóng cả vút tận mây xanh, có chu kỳ sinh trưởng là ba vạn hai ngàn năm, tám ngàn năm là mùa xuân, tám ngàn năm là mùa thu; được dùng để ví với người cha trong nhà, ôm ấp đùm bọc và che chở cho gia đình; Vì thế nên mới hình thành từ XUÂN ĐƯỜNG để chỉ người CHA trong văn học cổ. Trong Truyện Kiều khi vừa hẹn ước thề nguyền với Thúy Kiều xong, thì chàng Kim được tin cha gọi về để đi Liêu Dương hộ tang chú : Liêu Dương cách trở sơn khê, XUÂN ĐƯỜNG kíp gọi sinh về hộ tang. Khi được Thúc Sinh chuộc ra khỏi lầu xanh, Thúy Kiều khi đầu gối tay ấp với chàng Thúc, cũng đã biết thân biết phận của mình, sợ chàng Thúc chỉ biết "Mặn tình cát lũy" mà "nhạt tình tao khang" nên trong đêm đã khuyên chàng Thúc về thăm vợ cả là Hoạn Thư. Thúc Sinh đã nghe theo, nên mới... Rạng ra trình lại XUÂN ĐƯỜNG, Thúc Ông cũng vội khuyên chàng quy gia. Inline image Cây Xuân và Cỏ Huyên XUÂN HUYÊN 椿萱 : HUYÊN là HUYÊN THẢO 萱草 (諼草) còn được gọi là Hoa Kim Châm 金針花 hay Vong Ưu Thảo 忘憂草 là Cỏ làm cho quên buồn phiền. Có xuất xứ từ Kinh Thi 詩經.衞風.伯兮 bài Bá Hề chương Vệ Phong như sau : 焉得諼草, Yên đắc HUYÊN THẢO, 言樹之背。 Ngôn thụ chi bối. 愿言思伯, Nguyện ngôn tư bá, 使我心痗。 Sử ngã tâm mội. Có nghĩa : Làm sao có được cỏ HUYÊN, Trồng ở mặt BẮC bên hiên mái nhà. Mong người chinh chiến nơi xa, Ra vào tưởng nhớ lòng ta ngậm ngùi ! Sau được dùng để chỉ người mẹ, vì mẹ thường ở phòng mặt Bắc. Nên các du tử ngày xưa khi muốn đi xa nhà thường trồng loại cỏ HUYÊN nầy ở mặt bắc nhà, để cho bà mẹ trông thấy hoa Vô ưu nầy nở như trông thấy con vậy. Dần dà HUYÊN THẢO trở thành biểu tượng của bà mẹ và được trồng ở trong phòng khách nơi mẹ thường ngồi, nở hoa màu vàng, gọi là Hoa Kim Châm, có mùi hương nhẹ, ăn được. Thường dùng để nấu canh. Nên XUÂN ĐƯỜNG là Cha; còn HUYÊN ĐƯỜNG là Mẹ và gọi chung Cha Mẹ là XUÂN HUYÊN. Trong Truyện Kiều sau khi "gởi gắm" Kim Trọng lại cho Thúy Vân, thì Thúy Kiều "Một hơi lặng ngắt, đôi tay giá đồng" khiến cho... XUÂN HUYÊN chợt tỉnh giấc nộng Một nhà tấp nập kẻ trong người ngoài. Còn chàng Kim thì khi trở lại Vườn Thúy tìm Kiều không gặp. Trãi qua "Biết bao công mượn, của thuê" và "Cắt người tìm tõi, đưa tờ nhắn nhe" đều không có kết quả, khiến cho chàng Kim "Thẫn thờ lúc tỉnh lúc mê, Máu theo nước mắt, hồn lìa chiêm bao" nên cũng khiến cho... XUÂN HUYÊN lo sợ xiết bao, Quá ra, khi đến thế nào mà hay! Inline image Xuân Lan Thu Cúc XUÂN LAN THU CÚC 春蘭秋菊 là Hoa Lan của mùa xuân và Hoa Cúc của mùa thu, chỉ mỗi loại mỗi mùa đều có cái đẹp riêng, nửa cân tám lạng không ai hơn ai cả. Có xuất xứ từ 《Sở Từ. Cửu Ca. Lễ Hồn 楚辞·九歌·礼魂》: Xuân Lan Thu Cúc các nhất thời chi tú dã 春蘭秋菊各一時之秀也。Có nghĩa : Xuân Lan Thu Cúc đều có cái đẹp nhất thời của nó. Nên trong văn học cổ dùng để ví những vẻ đẹp khác nhau mà không thể nào so sánh được là ai hơn ai. Trong tiết Thanh Minh khi đi Đạp thanh, gặp được chị em Thúy Kiều, cụ Nguyễn Du đã cho chàng Kim nhận xét đánh giá... Bóng hồng nhác thấy nẽo xa, XUÂN LAN THU CÚC mặn mà cả hai ! XUÂN SƠN 春山 là Núi vào mùa xuân. Có xuất xứ từ Hồi thứ 9 trong "Lão Tàn Du Ký"《老殘遊記》第九回 : Kiến nả nữ tử... du hiễn đắc my tự xuân sơn, nhãn như thu thủy「見那女子... 愈顯得眉似春山,眼如秋水。」Có nghĩa : "Trông thấy cô bé đó... càng tỏ rõ mày xanh như núi mùa xuân, mắt trong như nước mùa thu". Chỉ vẻ đẹp mặn mà của các cô gái đương xuân. Cụ Nguyễn Du đã tả vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều Thúy Vân là : Làn Thu Thủy, nét XUÂN SƠN, Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh ! Inline image Làn Thu Thủy, nét XUÂN SƠN, XUÂN VI 春圍 : VI là Vòng vây, là Khuôn viên; nên XUÂN VI là cái Khuôn viên, nơi để cho các sĩ tử làm bài thi. Trong chế độ khoa cử ngày xưa, Thi Hội để lấy Tiến Sĩ thường được tổ chức vào mùa xuân, nên gọi là XUÂN VI 春圍 : Trường Thi vào mùa xuân. Trong truyện thơ Nôm "Lâm Tuyền Kỳ Ngộ" có câu : Thanh vân đường hãy thênh thênh rộng, Một áng XUÂN VI chẳng mấy lâu. XUYÊN DƯƠNG 穿楊 là từ nói gọn lại của thành ngữ BÁCH BỘ XUYÊN DƯƠNG 百步穿楊, có nghĩa là "Đứng xa ngoài trăm bước mà bắn xuyên qua được lá dương liễu"; ý nói nghề bắn cung thật giỏi thật siêu. Có xuất xứ từ Chiến Quốc Sách của Lưu Hướng đời Tây Hán 西漢·劉向《戰國策》với tích sau đây : Vào thời Chiến Quốc, danh tướng Bạch Khởi 白起 của nước Tần, nổi tiếng là bách chiến bách thắng, đã từng đánh bại hai nước Hàn và Triệu, nay lại định đem binh đánh thành Đại Lương của nước Ngụy. Mưu sĩ Tô Lệ 蘇厲 đến gặp thiên tử nhà Chu bàn rằng : Nếu Ngụy mất, Tần càng mạnh lên thì lại càng uy hiếp chư hầu và Chu thiên tử. Vua hỏi phải làm sao? Tô Lệ bèn tiến cử thuyết khách đến gặp Bạch Khởi kể lại câu chuyện như sau : Lúc trước nước Sở có tiễn thủ Dưỡng Do Cơ 養由基 bắn tên rất giỏi. Một hôm cùng thi bắn với một dũng sĩ cũng rất giỏi bắn tên là Phan Hổ 潘虎. Phan Hổ đứng cách xa bia 50 bước bắn liền 3 tên đều trúng vào giữa hồng tâm. Mọi người đều vỗ tay khen hay. Dưỡng Do Cơ bèn nói với Phan Hổ rằng, bắn trúng hồng tâm là chuyện thường tình mà thôi, nay tôi muốn bắn trúng cái lá liễu của cây dương liễu cách 100 bước đằng kia kìa, anh hãy đến đó chọn một lá liễu rồi sơn màu làm dấu, tôi sẽ bắn trúng cho anh xem. Mọi người có mặt và Phan Hổ đều nửa tin nửa ngờ, bèn chọn một lá làm dấu hẵn hoi. Dưỡng Do Cơ trương cung lắp tên "vù" một tiếng bắn trúng cái lá liễu kia ngay. Phan Hổ còn đương há hốc thì mọi người đã vỗ tay hò reo tán thưởng. Nhưng có người cũng còn tỏ ý nghi ngờ là chỉ trong một phút may mắn mà thôi, bèn hỏi Dưỡng Do Cơ có dám bắn thêm hai tên nữa không ? Dưỡng Do Cơ gật đầu đồng ý, rồi chọn thêm 3 lá ở 3 nơi nữa, làm dấu xong bèn lui ra sau 100 bước, giương cung ngắm kỹ và "vù, vù, vù" bà tiếng vang lên, ba chiếc lá dương liễu trúng tên rơi xuống. Mọi người vỗ tay như sấm khen hay không ngớt miệng. Dương Do Cơ đang hiêu hiêu tự đắc... Bỗng nghe có một tiếng nói vang lên bên cạnh :"Bắn giỏi đến có thể BÁCH BỘ XUYÊN DƯƠNG như thế nầy thì tôi mới dạy được!". Dưỡng Do Cơ nghe cái giọng điệu lớn lối kia bèn đưa mắt nhìn sang người đó và hỏi :"Ông định dạy tôi bắn tên như thế nào đây?". Người kia bình tĩnh ung dung đáp :"Tôi không dạy ông phải trương cung lắp tên và ngắm đích như thế nào, mà tôi chỉ cảnh giác ông nên biết làm thế nào để giữ được cái thanh danh BÁCH BỘ XUYÊN DƯƠNG nầy. Có bao giờ ông nghĩ đến một ngày nào đó, sức lực yếu đi, tay không còn mạnh như ngày nay, mắt không còn tinh như hiện giờ, chỉ cần bắn trật một phát thì tiếng tăm "Bách Bộ Xuyên Dương", "Bách Phát Bách Trúng" gì đều tiêu tan cả. Nên người bắn tên giỏi thì phải biết làm sao để giữ vững được cái tiếng tăm, cái thanh danh của mình mới là điều thượng sách !" Dưỡng Do Cơ nghe xong lời khuyên chí lý nầy, bèn vòng tay cung kính tạ ơn. Nay tướng quân là danh tướng, bách chiến bách thắng, vừa mới đánh bại hai nước Hàn, Triệu, tướng sĩ cũng đã mõi mệt, nay lại muốn đem binh đến đánh thành Đại Lương của Ngụy, trong khi Ngụy đã có phòng bị trước rồi, biết tướng quân có thắng được hay không ? Lỡ như bại trận thì thanh danh "Bách Chiến Bách Thắng" của tướng quân đành tan theo mây khói mà thôi !... Bạch Khởi nghe xong bèn cáo bệnh với vua Tần mà không khởi binh đánh Ngụy nữa. Inline image Ngoài việc chỉ bắn giỏi ra, XUYÊN DƯƠNG còn được dùng rộng ra để chỉ người học giỏi như người bắn giỏi vậy. Trong truyện thơ Nôm khuyết danh "Nữ Tú Tài" có câu : Cầm tay giao lại Soạn Chi, Rằng tay diệu thủ, tài kỳ XUYÊN DƯƠNG. XƯỚNG TÙY 唱隨 là nói gọn lại của thành ngữ PHU XƯỚNG PHỤ TÙY 夫唱婦隨. Có nghĩa : "Chồng hát thì vợ họa theo". Có xuất xứ từ chương Tam Cực của Quan Doãn Tử《關尹子。三極》: Thiên hạ chi lý, phu giả xướng, phụ giả tùy 天下之理,夫者倡,婦者隨。Có nghĩa : Cái lý trong thiên hạ là chồng đưa lên việc gì đó thì vợ phải nghe theo cái đó. Hàm ý : Chồng nói cái gì hay làm cái gì đó thì vợ cũng phải đồng tình mà làm theo cái đó. Dần dà, theo đời sống thực tế giữa hai vợ chồng với nhau, người đời sau mới đổi chữ XƯỚNG 倡 là Đề Xướng 提倡 là đưa ra việc gì đó thành chữ XƯỚNG 唱 là Ca Xướng 歌唱 là hát hò để cho hợp với thực tế cuộc sống hạnh phúc thi vị nên thơ của vợ chồng với nhau : Chồng hát hò vui vẻ thì vợ cũng họa theo cho vui vẻ cả hai. Có thể vì thế mà suốt mấy ngàn năm qua người phụ nữ luôn luôn tuân thủ phục tòng và làm theo ý chồng là vậy. Trong truyện thơ Nôm khuyết danh "Nhị Độ Mai" có câu : XƯỚNG TÙY đều giữ đạo hằng, Một nhà hòa hợp dễ chăng mấy người. Còn trong "Hoa Tiên Truyện" của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện thì gọi là XƯỚNG TÒNG, nghĩa cũng như XƯỚNG TÙY mà thôi : Tuy rằng tình chửa giao thông, Song le đã quyết XƯỚNG TÒNG là đây. Inline image Hẹn bài viết tới : Thành Ngữ Điển Tích 125 : Y, Ỷ, YẾN, YÊU. 杜紹德 Đỗ Chiêu Đức vnp_hoi_hoa_xuan_ecopark_2019_1 In bài viết Phản hồi Người gửi / điện thoại

Thứ Bảy, 2 tháng 8, 2025

THƠ BẢO NGỌC

THƠ BẢO NGỌC Sửa bao-ngoc-vanvn1 YÊU Yêu! Nỗi buồn như men rượu Càng ngấm càng say! Yêu! Nỗi nhớ như cỏ dại Không gieo vẫn mọc đầy. Yêu! Tự do như gánh nặng Buông trĩu trên đôi vai Yêu! Bình yên như hơi thở Đến tan chảy hình hài! HOA HỒNG Giọt nước mắt Trên cánh nhung mềm! Chiếc gai Nhọn và êm! Ngày lại ngày Cài lên ngực em. GIẢN DỊ Không dễ gì xuống tận đáy biển sâu Tìm lại viên ngọc xanh Nàng công chúa đánh rơi thuở trước. Đỉnh núi cao không dễ bước tới được Hái cho anh chùm hoa dại nguyên sinh. Không dễ gì mang đến giấc mơ anh Bóng dáng em khiêm nhường bé nhỏ Nếu những điều thường ngày em có Anh hững hờ bước qua! tay-bac7

Thứ Sáu, 1 tháng 8, 2025

NHÀ THƠ HỮU THỈNH CÂY BÚT PHÊ BÌNH CỰ PHÁCH

Nhà thơ Hữu Thỉnh - Cây bút phê bình cự phách Người đăng : nguyenhung Ngày đăng: 2025-08-01 05:46:33 mail facebook google pos stwis 101 lượt xem VŨ NHO
Còn nhớ năm 2010, nhà thơ Hữu Thỉnh công bố tập lý luận phê bình đầu tiên nhan đề “Lý do của hy vọng” chúng tôi đã viết bài khẳng định, do phải làm công tác Hội Nhà văn nên nhà thơ buộc phải viết lý luận phê bình. Bởi phải chủ trì các hội thảo, hội nghị, các lần trao đổi học thuật, các đợt triển khai nghị quyết của cấp trên. Mười năm sau, tác giả lại cho ra đời cuốn tiểu luận phê bình thứ hai “Bến văn và những vòng sóng”. Tập này gồm 61 bài viết trong đó có một số là những tổng kết hội thảo, diễn văn, báo cáo tổng kết của người đứng đầu Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam. Các bài phê bình văn học viết về các nhà văn, nhà thơ lớn như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Bính, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Lê Văn Thảo… Nhà thơ Hữu Thỉnh tại lễ ra mắt sách “Ám ảnh chữ”. Tập “Ám ảnh chữ” này được viết trong vòng 5 năm. Gồm 47 bài viết. Điều quan trọng và khác biệt nhất chính là nó được viết khi người viết đã được giải phóng khỏi mọi chức vụ. Lúc này đọc và viết chỉ còn là sự sung sướng và tự nguyện. Tác giả thổ lộ “dần dần lĩnh vực phê bình văn học làm tôi hứng thú không kém gì sáng tác”. Sẽ không có những tổng kết, báo cáo, diễn văn, đề dẫn. Bạn đọc sẽ thấy nội lực của Hữu Thỉnh khi trở lại với những tác giả mà anh đã viết trong tập trước với những khám phá mới. Ví dụ như đánh giá về Chế Lan Viên, Hữu Thỉnh chỉ ra Chế Lan Viên có “vẻ đẹp âm tính” so với thơ mới mang “vẻ đẹp dương tính”. Đối với thơ Cách mạng thì Chế Lan Viên cũng góp 3 điều khác biệt đem lại sự hài hòa cho thơ Cách mạng. Đó là thăng hoa trí tuệ, đanh thép của chính luận và tráng ca, hùng ca. Chưa một nhà nghiên cứu nào đánh giá, so sánh như vậy. Hữu Thỉnh cũng tranh biện với những ý kiến khác để bảo vệ “Di cảo” của Chế Lan Viên “Di cảo là bản lĩnh, là nhân cách, là tâm huyết lao lung của một nhà thơ kì tài chứ không phải là sám hối, hoặc là phủ định như một số người cố tình gán ghép”. Đánh giá về sáng tạo của Trần Dần trong trường ca “Đi! Đây Việt Bắc”. Hữu Thỉnh ví dụ 9 lần viết về lá, không lần nào giống lần nào, “Mỗi lần nhắc đến lá là mỗi lần thể hiện một cách nhìn, một tâm trạng khác nhau. Thế mới biết sáng tạo là câu chuyện của vô cùng”. Rồi người viết khẳng định: “Trần Dần đã đóng góp một giọng điệu riêng, một phong cách riêng, mang đến một giá trị bổ sung, làm phong phú thêm nền thơ ca chống Pháp trong tiến trình hiện đại hóa thơ Việt”. Chúng ta đều biết Hữu Thỉnh là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ với nhiều thành tựu. Tác giả có những tập thơ, những tập trường ca được đánh giá rất cao. Đó là ngòi bút thơ ca tài hoa, sâu sắc. Với lợi thế đó, tác giả viết nhiều bài phê bình thơ của người cùng giới nổi bật trong tập này. Thống kê nhỏ cho chúng ta thấy có 4 bài tổng hợp, khái quát và phê bình chân dung ("Góp thêm cách nhìn về nửa thế kỉ văn học", "Truyện ngắn “lá cờ chuẩn” của Hữu Mai được dựng thành phim như thế nào", "Cảm nhận “Những bức chân dung văn hóa” của Hoàng Kim Đáng và Văn hóa trong quá trình xây dựng nước ta thành một nước phát triển"), Hữu Thỉnh chỉ có 9 bài viết phê bình văn xuôi so với 34 bài viết về thơ và trường ca. Như vậy đã rõ về việc dụng sở trường của mình của cây bút phê bình Hữu Thỉnh. Viết về thơ bao gồm viết về tập thơ, về đời thơ, về trường ca của ai đó, tác giả đều đọc rất kĩ. Không ít lần chúng ta biết được công phu đọc của anh. “Tôi tự khuyến khích đọc thật chậm, đọc đi đọc lại rất kĩ từng bài để thấy hết những cố gắng của tác giả”. Hoặc “Tôi đã nhiều lần đọc tác phẩm này, lần nào cũng không cầm được nước mắt”. Khi bình phẩm, bao giờ Hữu Thỉnh cũng chú ý đến sự tìm tòi, đổi mới về nội dung và bút pháp. Không ít lần, để thuyết phục bạn đọc, nhà thơ Hữu Thỉnh trở thành nhà bình thơ, bình bài thơ hay khổ thơ mà anh cho rằng độc đáo, sáng tạo. Chẳng hạn, Hữu Thỉnh sau khi nhận định đã dẫn ra bài “Dựng nhà trên dãy Hoàng Liên” của Vũ Quần Phương, “một bài thơ toàn bích” và say sưa bình từ trang 184 đến 186. Ví dụ khác khi viết về Trần Nhương, tác giả vừa bình, vừa khen các bài thơ “Làng Sỏi”, “Vầng trăng trên đèo Ba Bông”, và “Vừa đủ”. Viết về nhà thơ Gia Dũng, Hữu Thỉnh bình kĩ hai bài thơ của tác giả là “Đò đêm” và “Chừng nào em về làng Đót?" rồi sung sướng kết luận “Tôi muốn nói lên sự sung sướng của nỗi bất ngờ và bất ngờ một cách sung sướng khi khám phá ra một Gia Dũng rất lạ, rất khác”. Đọc các bài viết về thơ và trường ca, bạn đọc luôn thích thú được tác giả Hữu Thỉnh chỉ ra và chia sẻ những “câu thơ nhan sắc”. Tất nhiên không phải lúc nào tác giả cũng chọn đúng, cũng làm người đọc đồng tình, không chút phân vân. Nhưng đại đa số những câu thơ nhan sắc mà Hữu Thỉnh khen thì đúng là nhan sắc thật. Nhiều lắm các ví dụ, song chỉ dẫn ra một số câu tiêu biểu: "Sau khi trải nỗi khổ to bằng thế giới/ Mẹ nhỏ lại/ Bằng đứa cháu kia thôi/ Một cô bé tóc bạc" (Trúc Thông). "Chiếc ba lô bé nhỏ/ Treo vách nhà/ Đựng những ngày đẹp nhất đi xa" (Y Phương). "Hạt sương/ Ngủ trên chiếc lá/ Giật mình thức giấc/ Thấy mình màu xanh" (Trần Lê Khánh). Không chỉ tinh tế về việc chọn những câu thơ nhan sắc, Hữu Thỉnh cũng rất giỏi việc khái quát nét riêng, độc đáo của mỗi nhà thơ mà anh động bút. Chỉ nêu hai ví dụ: Đánh giá cống hiến của Bằng Việt: “Sau hơn nửa thế kỉ cầm bút, Bằng Việt đã có những cống hiến xuất sắc về sáng tác, dịch thuật và khảo cứu. Anh là nhà thơ hàng đầu của thế hệ chống Mỹ. Thơ anh sớm có cách nhìn riêng, giọng điệu riêng, bút pháp riêng. Chất suy tưởng trong thơ anh phát triển theo sự vận động và thay đổi của đất nước”. Đây là khái quát về Thi Hoàng, người luôn tìm tòi đã có “những câu thơ đẳng cấp và chắc sẽ có tuổi thọ cao”. “Đã rõ là Thi Hoàng đau đáu về đời, đau đáu về thơ. Nhưng anh vốn kị to tiếng, nên mạch thơ không bị lộ thiên, nó chìm nhuyễn vào sự sống. Và nhất là nó thành nhịp thở của hồn anh. Một người đang tự bạch, đang ngộ, đang chuyển cái năng lượng tâm hồn thành năng lượng chữ, người ấy phải nung nấu lắm chứ”. Khác với Vũ Quần Phương độc canh ở mảng phê bình thơ, nhà thơ Hữu Thỉnh còn quan tâm đến văn xuôi, cụ thể là chín tập sách tiểu thuyết, ký sự. Ở đây, hơi tiêng tiếc là cái tinh tế, sắc sảo đã giảm đi mấy phần. Có lẽ người viết phê bình đã rời những sở trường của mình chăng? Thành công hơn cả là bài viết về Nguyễn Trọng Tân, Nguyễn Bắc Sơn, Đỗ Hàn. Các bài viết về Phùng Văn Khai, Nguyễn Hữu Nhàn, Hoàng Quốc Hải, Trình Quang Phú, Hoàng Quảng Uyên thì thành công vừa vừa bởi một điều kị là tóm tắt, kể lại nội dung tác phẩm dài quá. Người đọc không thấy rõ nhà văn được nói đến. Nhất là với tác phẩm của Hoàng Quảng Uyên. Khi viết về tập “Trông vời cố quốc”, người đọc không thấy tác giả Hoàng Quảng Uyên đã đành, mà hình tượng Bác cũng không rõ. Chỉ thấy nhà sử học không chuyên Hữu Thỉnh trình bày say sưa các sự kiện lịch sử xảy ra với Bác từ khi Người ra đi tìm đường cứu nước đến khi về Trung Quốc tham gia Hồng quân Trung Quốc mang quân hàm Thiếu tá với bí danh Hồng Quang. Trong cuốn sách vẫn còn nhiều lỗi chính tả do sơ suất đọc morát, và một số trích dẫn sai. Thật gay là bốn câu thơ ngắn trích, ba câu đều có từ sai hoặc thiếu: "Trong vườn em trái ngọt đã “thấm” cành/ Hoa đã nở hương thơm dìu dặt tỏa/ Hạnh phúc đến chật vườn ong bướm “hót”/ Gió ôm mùi hương bay xa" ( tr. 470). Tôi đối chiếu với “Sự im lặng biếc xanh”, trang 141, của Như Bình thì thấy tác giả Như Bình viết là: thắm cành, ong bướm hát và Gió ôm những mùi hương bay xa. Tôi muốn dành những lời cuối để nói đến bài đầu tập “Góp thêm cách nhìn về nửa thế kỉ văn học”. Đây là một bài viết sâu sắc, công phu, vừa bao quát, vừa chi tiết, chi tiết từng tên tác giả và tác phẩm. Nhà phê bình Hữu Thỉnh đã khái quát rất chính xác hai việc lớn của 50 năm qua: Trả nợ quá khứ và nhập cuộc đổi mới. Tác giả đã giải thích rõ ràng, rất thuyết phục. Dẫn chứng về tác giả, tác phẩm vô cùng phong phú. Riêng vấn đề biển đảo, Hữu Thỉnh dẫn chứng cha ông ta nói rừng vàng, biển bạc, mà anh chưa được đọc một áng văn hay nào viết về Biển. Nhưng 50 năm qua đã có "Đảo chìm" của Trần Đăng Khoa, "Trường ca Biển" của Hữu Thỉnh, "Tổ quốc nhìn từ Biển" của Nguyễn Việt Chiến, "Hòn đảo cuối chân trời" của Trần Nhuận Minh, "Quần đảo san hô" của Hà Đình Cẩn, "Từ biển mà lên" của Trịnh Công Lộc, "Hạ thủy những giấc mơ" của Nguyễn Hữu Quý, "Sóng trầm biển dựng" của Đoàn Văn Mật, "Đảo chìm và hơi thơ rừng chồi" của Vương Trọng, "Nơi khôn thiêng của biển" của Nguyễn Hữu Quang, "Trường Sa kì vĩ" của Sương Nguyệt Minh, "Biển xanh màu lá" của Nguyễn Xuân Thủy. (Mách nhỏ nhà phê bình Hữu Thỉnh là Trường ca "Biển mặn" của Nguyễn Trọng Tạo rất đáng kể vào đây!). Thật kính phục sức đọc, sức nhớ của một nhà thơ. Nhà thơ Hữu Thỉnh viết “Phàm làm thơ, ai cũng mong đợi một lời bình. […]Sợ nhất là rơi vào im lặng”. Không biết tác giả có đợi lời bình từ việc viết phê bình hay không. Nhưng tôi cứ viết lời bình này, vì tôn trọng, khâm phục, quý mến nhà thơ tài năng Hữu Thỉnh, càng thêm quý mến nhà phê bình cự phách Hữu Thỉnh với 3 tập sách đã in! Hà Nội, 17/6/2025 Nguồn: Văn nghệ Công an

VŨ NHO giới thiệu

VŨ NHO giới thiệu Sửa v_nho_tc_bch_kim Nhà văn Vũ Nho -Ảnh Hoàng Xuân Tuyền NGƯỜI QUÊN TUỔI SAY SƯA KẾT NỐI Cảm nhận cuốn “ BÚT KÝ TRÊN FB” của Nguyễn Đức, Nxb Hội Nhà Văn, 2025 PGS.TS. VŨ NHO Người xưa năm mươi tuổi đã lên lão, đã muốn buông bỏ mọi việc để hưởng chút an nhàn. Bây giờ y học tiến bộ, sức khỏe, tuổi thọ con người được nâng cao. Năm mươi tuổi chả mấy ai kêu già. Tuổi nghỉ hưu của nam giới ở nước Việt ta là sáu mươi. Nhiều cụ bảy mươi, tuổi “cổ lai hi” ( xưa nay hiếm) vẫn hoạt động sôi nổi. Tôi may mắn được quen các cụ cao tuổi hơn nữa, hơn tám mươi vẫn khỏe mạnh, minh mẫn và hoạt động say sưa. Đó là các thi nhân Ngô Thái, Thang Ngọc Pho, Lương Toán, và Nguyễn Đức với bút danh “Đức kết nối”. Chính vì hoạt đông kết nối FB mà nhà giáo Nguyễn Đức có cơ hội vào Nam, ra Bắc, quen biết các bạn thơ, kết nối các câu lạc bộ thơ ca, tham gia các sự kiện thơ ca ba miền. Kết quả của những chuyến đi không nghỉ, cùng với sự ghi chép tỉ mỉ, thường xuyên thông tin trên FB mà nhà giáo có tập bút kí này. Thật đáng khâm phục, sức khỏe, sức làm việc của một cựu nhà giáo văn chương. Tác giả tự bạch: “ Được hoạt động trong phong trào thơ ca quần chúng 9 năm ( 2016 – 2025) tôi đã được đi khắp mọi miền đất nước, được gặp nhiều bạn thơ thân thiết, và được tổ chức tham dự nhiều sự kiện thơ ca. Đó là một niềm vui lớn, tạo nguồn cảm hứng để tôi viết được nhiều bài trên Facebook, nhằm ca ngợi những vùng miền được đi qua, ca ngợi phong trào và các bạn thơ Facebook” ( Lời mở đầu). Điều đó là một sự thật đáng kinh ngạc và khâm phục. Chỉ tính năm 2017, Nhà giáo Nguyễn Đức ( Đức kết nối) đã đi rất nhiều địa phương. “ Tôi đã đến thành phố HCM, Cà Mau, Ninh Thuận, Nha Trang, Quảng Nam và lên Tây Nguyên. Ở miền Bắc tôi tới Việt Trì, Yên Bái, Thanh Hóa, Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình. Mùa hè năm đó tôi vào Huế gặp nhà thơ Ân Hồ bàn việc xây dựng phong trào.” ( Hội thơ xứ Huế, tr. 108). Một thanh niên mạnh khỏe cũng chưa chắc đã có đủ sức và đủ tiền để đi lại như thế. Trong khi tác gỉa đã 76 tuổi ta. Tất cả các câu lạc bộ thơ mạng Facebook đều biết đến người “kết nối” Nguyễn Đức. Ông xây dựng, duy trì phong trào, tổ chức gặp gỡ, tổ chức các cuộc liên hoan thơ ca khu vực, thơ ca ba miền ở thành phố Hồ Chí Minh, ở Huế, Hà Nội, Thanh Hóa, Yên Bái,… Các chuyến đi, các cuộc gặp gỡ, giao lưu đã là nguồn cảm hứng để người giáo viên văn chương nghỉ hưu bắt đầu những trang viết của mình. Cuốn sách chia ba phần. Phần thứ nhất trên các nẻo đường đất nước gồm 21 bài bút kí ngắn, ghi cảm xúc, ấn tượng , trải nghiệm của người viết về các vùng đất. Phần thứ hai Kết nối các bạn thơ Facebook, gồm 38 bài viết về những nhà thơ hoạt động trên mạng ở khắp mọi miền đất nước mà tác giả đã gặp gỡ, trao đổi, đã đọc thơ. Phần thứ ba Một chút tình riêng, gồm 4 bài viết về người cha, về con gái đầu, về người em trai và mong muốn “đi nốt chặng cuối đời”. Tôi có cảm giác ở phần thứ nhất, tình yêu văn chương, tình yêu quê hương đất nước của thầy giáo dạy Văn được hồi sinh, phát triển. Chỉ một đoạn văn ngắn, người viết dẫn ra thơ của Quốc Trường, Đặng Chấn Hưng, ca từ của bài hát Hồng Nhung , mùa thu trong thơ Nguyễn Du, mùa thu trong thơ Tố Hữu. Rồi từ nét thu hôm nay, “tìm lại dấu ấn tâm hồn của các thi nhân ngày trước”. “Đâu là chiếc ghế ở Hồ Gươm, nơi nhà thơ Lựu Trọng Lư ngồi nghe “lá thu rơi xào xạc”, đâu là nơi chàng thi sĩ Xuân Diệu viết bài thơ nổi tiếng Đây mùa thu tới, mùa thu tới/ Với áo mơ phai dệt lá vàng và đâu là nơi nhà thơ Nguyễn Đình Thi trước khi lên chiến khu Người ra đi đầu không ngoảnh lại/ Sau lung thềm nắng lá rơi đầy. ( Hà Nội mùa Thu, mùa Thu Hà Nội, tr. 9) Nguyễn Đức không viết dài, nhưng biết lọc ra những chi tiết, những ấn tượng tiêu biểu đã từng gặp. “ với người dân Huế cần được nói thêm nghèo phải biết ăn ngon. Nghe tưởng như mâu thuẫn, nhưng đúng là như vậy. Các mẹ, các chị ở Huế đã rất tỉ mẩn, cầu kì chế biến, để các món của nhà nghèo thành món ăn ngon và thành đặc sản của Huế” ( Tạm biệt Huế yêu”. Tr15). Ví dụ khác, khi vượt đèo Ô quy Hồ từ Sa Pa sang Lai Châu, nhà giáo đã có ý thức kể về “ tứ đại đỉnh đèo” miền Tây Bắc với những con số cụ thể, ấn tượng: “ Mã Pì Lèng ở Hà Giang dài 20 km nối liền Đồng Văn với Mèo Vạc, đèo Khau Phạ ở Yên Bái dài 40 km, đèo Pha Đin ở Điện Biên dài 30 km , còn đèo Ô Quy Hồ, con đèo dài nhất tới 50 km, dốc quanh co, địa hình hiểm trở, quanh năm mây phủ, nối liền hai tỉnh Lào Cai, Lai Châu được gọi là vua đèo Tây Bắc” ( Vượt đèo Ô Quy Hồ, tr. 34). Những ghi chép ngắn gọn ít nhiều đều đem lại sự thích thú cho người đọc. Phần quan trọng nhất là phần thứ hai. Cũng vẫn những ghi chép ngắn gọn, có tính thông tin báo chí. Không phải ngẫu nhiên tác giả để bài viết về nhà thơ Trần Quang Quý đầu tiên. Trần Quang Quý là nhà thơ nổi tiếng, giải thưởng nhà nước về VHNT, là Phó chủ tịch Hội nhà văn Hà Nội, người nhiệt tình đóng góp với thơ mạng, Viết bài cổ vũ nhà thơ An Nhu, cùng dự giao lưu “Tình thơ Tây Bắc” và các câu lạc bộ khác. Nguyễn Đức đã gặp gỡ, thăm hỏi, trao đổi với hầu hết các “thủ lĩnh” nổi tiếng của phong trào thơ FB từ Bắc chí Nam. Bạn đọc, nhất là bạn chơi mạng đều đã biết những tên tuổi các vị Ngô Thái, Thu Hải, Trần Thanh, Quốc Trường, Chử Thu Hằng, Đặng Chấn Hưng, An Nhu, Sarah Lieng Nguyên, Nina Nguyen, Lê Gái,… Nguyễn Đức thông tin về họ, bày tỏ tình cảm khâm phục, kính trọng sự nhiệt tình, vô tư, tích cực đóng góp cho phong trào thơ ca quần chúng . Tác giả cũng vừa bình, vừa giới thiệu các cây bút ở địa phương như Mai Lịch Hồng, Vũ Thu Hương ( Yên Bái), Nga Vũ, cặp vợ chồng Toàn Tâm, Thư Trần ( thành phố Hồ Chí Minh), Ri Trương ( Bến Tre), …Rồi thơ các nhà thơ khác như Ca Thương, Mạc Uyên Linh, hồi kí “ Thường dân” của Nguyễn Thu Hải, đều được trân trọng giới thiệu. Không chỉ quan tâm tới các thủ lĩnh, chủ nhiệm các câu lạc bộ, tác giả còn chia sẻ niềm vui với cha con Vũ Nguyên, một bạn thơ khuyết tật giàu nghị lực,… Bài cuối là bài “ Chuyện tình người trên Facebook” nói về tình cảm của những người làm thơ mạng với nhau. Thiết tưởng cả cuốn sách “ Bút ký trên FB” của nhà giáo Nguyễn Đức là minh chứng sâu sắc nhất, tuyệt vời nhất , cho tình người trên Facebook! Khi cuốn sách của nhà giáo Nguyễn Đức xuất bản, trân trọng và quý mến tác giả, nhà văn La Giang Phạm Khắc Mã đã làm một vdeo clip nhan đề “Nguyễn Đức người thắp lửa cho thơ ca thời đại số” với giọng đọc truyền cảm của nghệ sĩ Bình Yên. Tôi muốn dùng lời bình luận của Bình Yên để thay cho lời kết bài viết này: “Trong lĩnh vực gắn kết những tấm lòng và sẻ chia yêu thương, không thể không nhắc đến ông Đức Kết Nối – người đã lặng lẽ mà bền bỉ, miệt mài vun đắp cho những nhịp cầu nghĩa tình… Cám ơn nhà văn họa sĩ La Giang Phạm Khắc Mã” Hà Nội 4/7/2025 nui_xanh