NGUYỄN VIỆT ANH: THƠ TỪ THẾ GIỚI CẢM QUAN KHÁC BIỆT
MƯA TRONG CỬA SỔ TRỜi
TRAO ĐỔI VỚI TS NGUYỄN PHƯỢNG VỀ BÀI “QUA ĐÈO NGANG”
Vũ Nho
TRÍCH FB BÀI CỦA
NGUYỄN PHƯỢNG
1. Nhan đề:
Nhan đề thơ trung đại thường rất ngắn gọn, tiết chế chữ.
Trước đây bài thơ thường được mặc định ở thể tả cảnh ngụ tình. Có người còn rút gọn hơn nữa trong giới hạn thơ vịnh cảnh.
Nếu chỉ để vịnh cảnh, bà chỉ cần viết: ĐÈO NGANG là được rồi. Chữ QUA ở đây vì thế sẽ là chữ thừa.
Tuy nhiên, trong mục đích của thi nhân thì chữ QUA trong nhan đề kia đóng vai trò chứa đựng trọng lượng nghĩa cơ bản của thông điệp.
Từ QUA ở đây giữ chức năng của một động từ. Do đó, QUA là đi qua, vượt qua.
Người ta không chỉ phải đi qua một biên giới của họ Trịnh, họ Nguyễn trong quá khứ mà người ta còn phải đi qua, vượt qua cái ranh giới của hận thù và, việc này thì chẳng dễ.
Lịch sử nội chiến của dân tộc này đã minh định điều đó.
2. Cú pháp và ngôn ngữ:
Có một sự lặp.
Không lặp từ nhưng lặp ý. Đó là các từ DỪNG CHÂN và ĐỨNG LẠI. Về nghĩa không khác. Đứng lại thì cũng là dừng chân thôi. Nhưng tại sao?
Tức là có một sự lưỡng lự không hề nhẹ.
KHÔNG CHỈ CÓ BA NGƯỜI…
Tiểu thuyết “Ba người cùng làng” của Hữu Đạt, Nhà
xuất bản Thông tin và Truyền thông, 2024
Vũ Nho
Phó giáo sư, Tiến sĩ, nhà văn Hữu Đạt là một người “đặc biệt”. Nói như vậy vì anh là người được đào tạo thành nhà nghiên cứu. Anh đã rất thành công trong lĩnh vực ngôn ngữ học với nhiều công trình được đồng nghiệp, bạn bè và sinh viên đánh giá cao. Nhưng không chỉ có thế. Tư duy nghiên cứu không hề ảnh hưởng đến tư duy sáng tác, dù rằng đây là hai kiểu tư duy rất khác biệt mà thường thì ít người có được cả hai. ( chỉ hiếm hoi có GS Hà Minh Đức, GS.TS. Nguyễn Thanh Hùng, GS.TS. Lê Văn Lân ( Mã Giang Lân) và PGS.TS. Phạm Quang Long). Hữu Đạt đặc biệt vì trong lãnh vực nghiên cứu, anh là người thành công. Nhưng lĩnh vực sáng tác, anh cũng có nhiều thành tựu nổi bật. Không nhiều nhà nghiên cứu lại có gia tài văn xuôi gồm kịch, truyện ngắn, tiểu thuyết phong phú như một nhà văn chuyên viết văn xuôi. Anh viết cả ca kịch, kịch nói, truyện, rồi kịch bản phìm truyền hình, cuốn chân dung nổi tiếng các giáo sư khoa Văn trường Đại học Tổng hợp “Văn khoa chân dung kí’. Anh còn có hai tập thơ, một tập trường ca. Anh đã có 9 tiểu thuyết từ “Ngọn lửa tình yêu” (1987) đến “Cổng trường thời mở cửa” ((2006). “Ba người cùng làng” là cuốn tiểu thuyết thứ mười của anh. Sẽ là thiếu sót nếu không kể đến cuốn sách “Kì bí đi tìm y lí phương đông” liên quan đến lĩnh vực Y học. Một sức làm việc đáng kính nể, …
TIẾNG CỎ ĐÊM
Nguyễn Đức Bình
Sông làng nay đục mai trong
Phù sa chiu chắt nuôi đồng lúa xanh
Người lành hòn đất cũng lành
Cả đời khoai sắn dưa hành cà tương
Chết vùi gốc lúa che xương
Sống lăn lóc ruộng chiếu giường rạ rơm
Cuốc cầy chẳng quản thiệt hơn
Gội mưa tắm nắng hạt cơm vẫn gầy
“ Trông trời trông đất trông mây”
Ngờ đâu cả gió chết cây gẫy cành
Bờ xôi ruộng mật. Thôi đành!
Chợ người nháo nhác thị thành kiếm ăn
Cõi đời là mấy tháng năm
Lại về với vũng trâu đằm ngày xưa!
N.Đ.B
Lời bình của Nhà thơ Quốc Toản
ĐÊM NAY TÔI LẠI NẰM NGHE TIẾNG CỎ
MIỀN BAN TRẮNG – MIỀN THƠ GIÀU CẢM XÚC
(Giới thiệu tập thơ Miền ban trắng của nhà thơ Phạm Minh Tân)
NGUYỄN THỊ MAI
NHÀ THƠ NGUYỄN THỊ MAI
Trong gần 2 trăm hội viên nữ của Hội Nhà văn Hà Nội, nhà thơ Phạm Minh Tân không nổi trội, không có dấu ấn rõ nét về sáng tác nhưng trong lực lượng văn nghệ khu vực Hà Đông – Sơn Tây chị lại là tên tuổi được bạn bè biết đến, yêu thích và trân trọng bởi những thành quả sáng tạo văn học chân thực, dung dị làm nên cảm xúc trong lành, truyền được niềm tin yêu cho người đọc.
Tính đến nay, nhà thơ Phạm Minh Tân đã có 7 đầu sách in riêng, gồm cả truyện và thơ. Tuy nhiên với tôi, thơ là thế mạnh của chị, là thật nhất với tâm tư, nỗi niềm của con người nhân hậu, khiêm nhường, nhiều nén chịu trong chị.
Và tôi chọn thơ – Vì thơ mới thể hiện rõ tâm hồn, cốt cách của cây bút nữ Phạm Minh Tân.
NGUYỄN ĐÌNH NHỮ dịch
武 輝 珽
VŨ HUY ĐĨNH
(1730 - 1789)
Vũ Huy Đĩnh武 輝 珽 (1730 - 1789), tự Ôn Kỳ 温 奇, thụy Văn Trung 文 忠, ông còn có tên là Trọng Cung 仲 恭và Huy Tú 辉 锈. Vũ Huy Đĩnh người xã Mộ trạch, huyện Đường An (nay thuộc huyện Ninh Giang, Hải Dương). Ông thi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiên sĩ, xuất thân năm Giáp Tuất, niên hiệu Cảnh hưng 15 1754), đời vua Lê Hiển Tông.Ông giữ các chức quan như: Thừa chính sứ, Hữu thị lang Bộ Lễ, tước Hồng trạch bá và được cử đi sứ sang nhà Thanh (Trung Quốc).
Tác phẩm:
Hoa trình thi tập 华 程 詩 集
題 諸 葛 亮 求 風 臺
(自 岳 州 進 行 經 赤 壁 岸 及 南 平 武 侯 求
風 臺 舊 只 猶 存 今 建 爲 祠 香 火 不 絕)
VỀ PHONG CÁCH BÌNH THƠ
CỦA CHÂU THẠCH
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Khi tìm tài liệu đọc để viết bài CHỮ TÔI, CHỮ TA VÀ CÁI TÂM LÀNH, tôi chợt có ý định thử tìm hiểu về phong cách bình thơ của nhà phê bình văn học Châu Thạch nên cần mẫn ngồi đọc 130 bài bình thơ của ông. Đọc xong, tôi phấn chấn, nảy thêm ý định “tận dụng sự đọc 130 bài bình thơ” để viết một bài làm “kỷ niệm”... Tôi điện gặp nhà phê bình Châu Thạch, nói ý định của mình, ông cười sảng khoái: - “Vâng! Đặng Xuân Xuyến cứ viết theo đúng như những gì Đặng Xuân Xuyến cảm nhận về Châu Thạch, như thế mới quý. Cám ơn Đặng Xuân Xuyến trước nhé.”.
Tôi liền cặm cụi ghi lại những cảm nhận của mình về phong cách bình thơ của ông. Vì đây là bài cảm nhận của một đọc giả về một tác giả nên cấu trúc bài viết và những dẫn giải đưa ra sẽ không mang tính nghiên cứu khoa học, nên bài viết sẽ có những hạn chế, những thiếu sót khiến bạn đọc không được vừa ý.
&.1
Đọc những bài bình thơ của tác giả Châu Thạch, tôi hay gặp (nhiều) cách ông giả định khi bình thơ, tôi tạm gọi đó là phương pháp giả định để liên tưởng và giả định để gợi mở trong cảm thụ thơ văn. Có thể nói, đấy chính là phong cách đặc trưng, là cách nổi trội trong phong cách bình thơ của tác giả Châu Thạch. (Đây chỉ là quan điểm cá nhân của tôi khi đọc Châu Thạch bình thơ, không là bài phê bình của người viết phê bình, vì thế “thuật ngữ” giả định để liên tưởng, giả định để gợi mở và một số “thuật ngữ” khác sẽ dùng trong bài viết nếu chưa sát nghĩa hoặc không đúng, mong quý vị thể tất.)