VỢ THẦY TRANG SINH : TRANG SINH là Trang Tử, theo tích sau đây...
TRANG TỬ tên Chu 周 (Châu), tự là Tử Hưu 子休, người nước Tống 宋 thời Chiến Quốc (690-286 TCN), cùng vợ là Điền Thị ẩn cư ở phía nam núi Hoa Sơn. Một hôm, trên đường về nhà, trông thấy một thiếu phụ dùng quạt để quạt một nấm mộ bên đường. Trang Tử thấy lạ bèn hỏi, thiếu phụ cho biết là mộ của chồng mình, vì khi còn sống hai vợ chồng rất thương yêu nhau, nên có hẹn nhau là khi chồng chết, thì sau tang lễ, phải đợi cho mộ khô rồi mới tái giá, nhưng gần đây mưa gió cứ dập dìu, mộ không khô được, nên phải quạt cho mộ mau khô! Trang Tử nghe nói, thầm cười cho thế thái nhân tình nhưng cũng thi triển pháp lực giúp thiếu phụ quạt khô mộ chồng. Khi về nhà, đem truyện kể lại với vợ là Điền Thị, Điền Thị vô cùng phẫn nộ, chê trách thiếu phụ và bảo rằng: "Trung thần bất sự nhị quân, Liệt nữ bất sự nhị phu 忠臣不事二君,烈女不事二夫" có nghĩa "Tôi trung không thờ hai chúa, gái tiết liệt chẳng lấy hai chồng". Mấy tháng sau, Trang Tử bệnh chết, có một thiếu niên anh tuấn dắt theo một lão bộc, tự xưng là Vương Tôn của nước Sở, vì mộ tiếng của Trang Tử mà tìm đến để theo học đạo. Nay tuy Trang Tử đã mất, nhưng cũng nguyện thủ tang theo lễ thầy trò, ở lại cư tang một trăm ngày và để đọc Nam Hoa Kinh của Trang Tử. Điền Thị rất vui dạ vì cảm cái vẻ cao sang tuấn tú của Vương Tôn, mới nhờ lão bộc làm người mai mối, rồi xuất tiền lo cho hôn sự của hai người. Đêm động phòng hoa chúc, Vương Tôn bỗng phát bệnh đau tim, thoi thóp sắp đứt hơi. Lão bộc cho biết là nếu có óc của người sống hoặc của người chết chưa quá bốn mươi chín ngày hòa với rượu uống vào thì khỏi bệnh. Điền Thị bèn xách búa bổ quan tài của Trang Tử định lấy óc ra làm thuốc cứu mạng Vương Tôn. Không ngờ khi quan tài vừa vỡ ra thì Trang Tử cũng vừa sống lại. Điền Thị cả thẹn, biết mọi việc đều do Trang Tử biến hóa an bày, nên treo cổ mà chết. Trang Tử gỏ bồn làm nhịp ca bài điếu tang rồi cảm khái ngâm rằng :
ĐÔI NÉT CẢM NHẬN VỀTHƠ THIÊU NHI CỦA TRƯƠNG ANH TÚ
Qua tập
“ Trắng
mây tóc mẹ”, Nhà xuất bản Kim Đồng
Vũ Nho
Khi
nhà thơ Tương Anh Tú trình làng tập “ NHỮNG MÙA HOA ANH NÓI”, nhà xuất bản Hội
Nhà văn, 2018, chúng tôi đã viết một bài
bình luận khá dài. Trong đóvẫn lưu
trong bản thảo nhận xét tổng quan của
mình : “Có thể nói Trương Anh Tú làm thơ khá hồn nhiên, tự nhiên. Anh vẫn làm
các thể thơ truyền thống tự do. Anh cũng không có ý cách tân hay hậu hiện đại
gì cả mà chỉ hồn nhiên thể hiện tình cảm của mình. Tôi đánh giá tất cao sự hồn
nhiên, tự nhiên đó” ( trong bài viết Trong
trẻo hồn nhiên một hồn thơ Hà Nội). Vâng, hồn nhiên là một phẩm
tính rất quan trọng của thơ, nhất là thơ cho tuổi thơ. Trong cuốn chuyên luận về
thơ thiếu nhi của Trần Đăng Khoa,chúng
tôi đã có một đề mục 8 trang in trình bày về vấn đề này vớikết luận: “ Nếu vắng thiếu sự tưởng tượng và
liên tưởng hồn nhiên, nếu vắng thiếu những tinh tế trong cách nhìn, cách nghe,
cách cảm gắn liền với liên tưởng và tưởng tượng, thơ Trần Đăng Khoa sẽ thiếu
đimột nét siêu việt – nét đặc sắc nhất
để xếp vào loại thơ thần đồng” ( Vũ Nho – Trần Đăng Khoa thần đồng thơ ca –Nhà
xuất bản Văn hóa Thông tin, 2000, tr.28)
Baovannghe.vn - Giời với đất dạo này chả ra làm sao. Nhìn bên ngoài thấy sương giăng giăng tưởng là lạnh mà trong nhà thì nóng hầm hập. Đã thế cái võng lại kẽo kẹt kẽo kẹt... điếc cả tai.
aa
Sốt ruột, bà Sênh lấy nước đổ vào cái khoẳm võng nhưng cũng chỉ được một lúc là lại kẽo kẹt... Thành thử cứ mơ mơ màng màng như người ốm dở. Khó ngủ... bà lão ngồi dậy: Làm gì bây giờ. Mới hơn ba giờ sáng chứ mấy. Làm gì bây giờ?
Bần thần một lúc, đầu óc lơ mơ nặng chình chịch. Khéo ốm mất. Vậy phải dậy. Ngáp một cái, vươn vai một cái, bà rời võng lần đến góc nhà. Mắt nhắm mắt mở, quờ tay vớ được cái chai... đây rồi. Bà nâng cái chai lên, giương cặp mắt kèm nhèm nhìn qua ánh sáng vàng vọt bởi cái bóng điện ngoài cửa. Vẫn còn. Làm một hớp “phu phong” cả ngày. Ngửa cổ dốc một hơi... cay nồng, tê tê... Nuốt. Râm ran từ đầu lưỡi đến vòm miệng lan qua cổ họng. Nóng trong ngực, rồi cái cảm giác nóng ấy khơi thông mạch máu lan đến đỉnh đầu, khơi thông cái mạch hỗn độn u tịch trong đầu. À bây giờ thì khá hơn rồi. Cha tổ bố nhà nó... cái giống rượu vậy mà hay thật.
Đúng vậy! Cái giống rượu vậy mà hay. Nó đã đỡ bà dậy kể từ khi đứa con trai của bà cũng bỏ đi theo bố nó. Khi người ta đưa con bà đi, bà thấy đất giời rỗng rễnh... Chả có gì... cứ trống hoang hoác... vậy từ nay có mình ta trong cái hoang hoác, chống chếnh này... ta còn gì ...chả còn gì, đến cái ảnh của đứa con cũng chả có. Ai chụp ảnh cái thằng người dị dạng. Giời sao ác thế. Nhìn cái bát hương khói nghi ngút... cháy đi cháy đi, nghi ngút đi... rồi mai đây ta cũng chẳng còn chẳng còn ai nhang khói, và cả ta nữa cũng chẳng ai nhang khói...Cha tổ bố nó... Đời vậy mà ác. Bà muốn đập hết đập hết... để cũng chả làm gì. Nhà cửa, bàn ghế, của cải mâm bàn bát đĩa đập ráo. Cho nó tan tành hết. Bà vớ lấy chai rượu trên bàn thờ con giai. Nào đập!... tự dưng bà cảm thấy khát. Ơ hay... sao lại khát? Khát thì uống. Vậy là ngửa cổ tu. Lạy giời... chả biết vì cái thứ nước lạnh của rượu hay vì cái cay mà nóng rát ở cổ. Cái nóng rát chạy vào bụng lại làm cái đầu tự dưng tỉnh táo ra: Ô lạ thế. Sao lại phải thế? Mình đã lo cho con giai những thứ nó cần ở trên cõi đời này rồi. Có đau cũng là sự đã rồi... Bà uống rượu từ ngày ấy.
Bây giờ trong đầu hiện ra những nỗi lo. Vì những nỗi lo ấy mà bà phải sống. Đến tháng mười này thì ông ấy đã được mười năm, thằng con giai đã được năm năm...dăm năm là được rồi. Cuối năm phải tắm rửa cho hai bố con. Để bố con ông ấy sạch sẽ mồ yên mả đẹp. Để yên tâm. Rồi thì mình còn được ngày nào biết được ngày đó. Cũng bảy mươi rồi còn gì...
Và còn nỗi lo nữa... “nó” đang trong nhà bà. Đang nằm ngủ trên cái giường mà con bà ngày xưa vẫn nằm. Và không phải chỉ có mình “nó”...
*
Bà Sênh vừa bén hơi chồng đã phải xa chồng vì chiến tranh. Hơn mười năm đánh nhau đã biến chồng bà từ một chàng trai khôi ngô thành một ông già hốc hác tiều tụy... khi ông Sênh chiến thắng trở về. Dù sao vẫn hơn những người không trở về. Mừng mừng tủi tủi, họ lao vào nhau cho thỏa khao khát chờ đợi... nhưng cũng ê chề bởi không thể tìm lại cảm giác ngày xưa. Và cả vợ cả chồng chợt nhận ra một chục năm hoang phí... để bây giờ dẫu nồng đượm nhưng vẫn nhợt nhạt, dù thèm khát nhưng cũng chẳng bõ bèn.... Cũng may vì cái sự nhợt nhạt ấy còn có kết quả: Thằng bé Sinh ra đời khi bà đã tuổi ngót bốn mươi...
Tôi ngồi đọc sách canh lửa rền nồi bánh tro giúp Mẹ. Chấm mưa chen xác hoa trước xuân rơi đan những lật trang nhòa ẩm. Rạc bước giữa mỗi con chữ,chiếc bánh tro cuốn bó đỏ vàng lạt giang mắt cáo y chiếc xà cạp của cụ Vitalis[1]và cậu Rémi lượn quanh sân khấu.
Bếp lửa bung phiến lưỡi te tua lẻm quanh đáy nồi ba mươi đồng đỏ thắt eo loe miệng, ọc ạch vỡ bóng, sôi vọng qua chiếc vung đan cật tre. Hơi nước vòng veo, ngẩn theo vị lá chít thổn nức ngô non luộc chưa kịp giao thấm hương hạt nếp thanh luyện trong dung môi tàn tro cây lá vỏ quả của các vị thuốc dưỡng thực nên hãy còn ang ngái.
Một sáng đã Xuân, nhưng hồi ký lòng tôi sao ngây dại nỗi buồn.
Bánh tro- thức bánh giản dị như nguyên sơ, người thường đa ngộ nó sơ sài, ai cũng thể thao tác theo công thức. Nhưng sự đời từ luộc trứng đến chế tạo ô tô điện thoại smartphone dựng nhà tạc tượngvẽ bức tranh viết một câu chuyện mà đạt tới vẻ đẹp giản dị tinh tế, mãn kiếp vẫn thách thức nghệ nhân ẩm thực kỹ sư và các nghệ sĩ. Vì vậy cả ngàn thị dân cả ngàn nông dân đến cữ, tới thì cũng trình diễn bánh tro -“péng nẳng”nhưng sản phẩm chỉ bảo đảm là ăn được.
Bánh tro đạt đến phẩm hàm “nguyên sơ”thì “đòi” người “chế tác” phải đạt ngưỡng trình chẳng những giàu mỹ cảm mà còn tinh thông dược lý, tỉ mẩn của lang y hy vọng với đến chuẩn ngon- nhã- tinh- như nhiên. Bởi Mẹ đã bảo rằng: “Thức gì chứ, riêng bánh tro khi cắt miếng bánh bày đĩa mà không đẹp như những cánh hoa ngọc thạch, mã não thì dám chắc không thể nào ngon.’’
Thế hệ nhà văn 1975 trong không gian văn học đương đại
Cập nhật ngày: 20 Tháng năm, 2025 lúc 20:54
Vanvn– Lớp nhà văn sinh từ 1975, chúng tôi gọi là “Thế hệ 1975”, một lực lượng đông đảo (sinh ra trong vòng 20 năm, sau giải phóng miền Nam), các tác giả là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hoặc những cây bút nhiều triển vọng.
Trong bài viết này, chúng tôi chỉ “chạm” đến “Thế hệ 1975” chuyên sáng tác văn/ thơ, còn các tác giả viết lý luận, phê bình sẽ được đề cập riêng trong một bài khác.
Con số 50 gương mặt tiêu biểu hàm nghĩa một thời kỳ lịch sử nửa thế kỷ (1975 – 2025). Sáng tác văn xuôi có: Đỗ Bích Thúy (1975), Võ Diệu Thanh (1975), Nguyễn Thị Lê Na (1975), Phong Điệp (1976), Tống Ngọc Hân (1976), Trần Đức Tĩnh (1976), Nguyễn Ngọc Tư (1976), Phạm Thị Duyên (1977), Uông Triều (1977), Nguyễn Xuân Thủy (1977), Mai Phương (1977), Nguyễn Hương Duyên (1977), Di Li (1978), Vũ Thanh Lịch (1978), Nguyễn Thị Hồng Chính (1979), Phan Thúy Hà (1979), Niê Thanh Mai (1980), Chu Thị Minh Huệ (1981), Nguyễn Văn Học (1981), Trần Quỳnh Nga (1981), Thương Hà (1981), Trần Thị Tú Ngọc (1984), Nguyễn Thị Kim Hòa (1984), Văn Thành Lê (1986), Nguyệt Chu (1986), Trác Diễm (1987), Vũ Thị Huyền Trang (1987), Hoàng Công Danh (1987), Lê Vũ Trường Giang (1988), Đinh Phương (1989), Meggie Phạm (1991), Đỗ Nhật Phi (1991), Huỳnh Trọng Khang (1992), Phan Đức Lộc (1995).
Sáng tác thơ có: Nguyễn Thị Hạnh Loan (1976), Bình Nguyên Trang (1977), Bế Kim Loan (1977), Phạm Thùy Vinh (1977), Trần Vũ Long (1977), Đỗ Doãn Phương (1977), Vi Thùy Linh (1980), Nguyễn Quang Hưng (1980), Phạm Vân Anh (1980), Trần Hoàng Thiên Kim (1981), Phạm Thúy Nga (1981), Thy Lan (1982), Khúc Hồng Thiện (1983), Đào Quốc Minh (1986), Lữ Thị Mai (1988), Nguyễn Thị Kim Nhung (1990).
C ó lẽ, phải vào lúc sống một mình giữa không gian tối tăm, sau hai ngày cả mấy cha con bị xích tay vào trại tạm giam, ông mới sực láng máng nhớ đến cái khái niệm “Tư tưởng của Ruồi” mà một nhà báo nhà văn có số má từng nói với ông gần 10 năm trước. Nó được thốt ra, đúng hơn là được nhắc lại, giữa men rượu Tây hảo hạng do ông chiêu đãi tại một restaurant sang trọng bậc nhất Sài Thành, giữa các nhà văn nhà báo ông sưu tập được qua mấy năm kinh doanh vào quy mô khủng, mà trung tâm là tay nhà văn cộm cán từng kiếm nhiều tiền nhất của gia tộc ông và các doanh nghiệp nổi như cồn, có biệt danh “Ruồi Trâu” do anh ta tự đặt.
Nhưng bây giờ, ông đã thấm sự sai lầm của ông và các con khi đã coi tay này là “quân sư quạt mo” thượng thặng của gia tộc…
CHA VẪN ĐỨNG ĐÂY DẠY HỌC Vị giáo sư Giải phẫu học Là đương kim Trưởng bộ môn Mời Đoàn đi thăm cha mình Là Trưởng bộ môn tiền nhiệm. Một người bằng xương, không thịt Trang nghiêm đứng ở đầu phòng! “Thưa, đây là Cha tôi đó Sinh thời Cụ thiết tha mong… Và tôi cũng thấy ấm lòng Cha vẫn đứng đây dạy học”. BỎ BIỂN LÊN GIỜI Thăm cung điện, vãng cảnh chùa Lướt qua siêu thị (chẳng mua thứ gì)
Trên tay tôi là tập “Thơ chọn lọc” 338 bài của nhà giáo, nhà thơ, nhà báo Trần Thị Nương. Cái tên đã gọi đúng thần thái, thần thức của thi tập: “Men lửa”. Đó là tập thơ của niềm giao cảm, của tình yêu và khát vọng, của sự trăn trở trước con người, trước cuộc đời.
Lửa hiện lên trên tên gọi của nhiều bài thơ: Lửa reo, Lửa hồng, Lửa nồng, Lời của lửa, Cháy lặng im, Vẫn cháy… Dường như, nguồn năng lượng ấy chị dồn hết cho thi ca. “Men lửa” cũng là điệu tâm hồn thơ Trần Thị Nương. Thơ đến với chị từ những điều thiêng liêng cao cả: Tình cảm gia đình, tình yêu thiên nhiên đôi lứa, tình yêu quê hương đất nước… Nhưng nhiều khi thơ đến từ những điều giản dị, từ những con người của đời thường: Ngày nằm viện, người thợ may, nghe người bạn thơ hát… Cuộc sống với muôn vàn gương mặt đều có thể tràn vào trang viết. Chữ nghĩa bắt đầu từ gia đình, từ câu hỏi rưng rưng trước cỏ xanh của tấm lòng hiếu nghĩa: “Đâurồi bóng mẹ? Cỏ non ơi!”. Chữ nghĩa bắt đầu từ tình thương của mẹ: “Chút gừngcay đẩy lùi cơn cảm lạnh/ Tay mẹ gầy xoa ấm mấy trăm năm”. Thật cảm động và ấm lòng, tôi như được gặp lại mẹ mình trong hình ảnh thơ ấy. Riêng và chung, người mẹ của nhà thơ nhưng cũng là người mẹ của năm tháng không quên. Tình thương ấy vẫn đang sưởi ấm những ngày đông buốt giá.