KHÔNG CHỈ CÓ BA NGƯỜI…
Tiểu thuyết “Ba người cùng làng” của Hữu Đạt, Nhà
xuất bản Thông tin và Truyền thông, 2024
Vũ Nho
Phó giáo sư, Tiến sĩ, nhà văn Hữu Đạt là một người “đặc biệt”. Nói như vậy vì anh là người được đào tạo thành nhà nghiên cứu. Anh đã rất thành công trong lĩnh vực ngôn ngữ học với nhiều công trình được đồng nghiệp, bạn bè và sinh viên đánh giá cao. Nhưng không chỉ có thế. Tư duy nghiên cứu không hề ảnh hưởng đến tư duy sáng tác, dù rằng đây là hai kiểu tư duy rất khác biệt mà thường thì ít người có được cả hai. ( chỉ hiếm hoi có GS Hà Minh Đức, GS.TS. Nguyễn Thanh Hùng, GS.TS. Lê Văn Lân ( Mã Giang Lân) và PGS.TS. Phạm Quang Long). Hữu Đạt đặc biệt vì trong lãnh vực nghiên cứu, anh là người thành công. Nhưng lĩnh vực sáng tác, anh cũng có nhiều thành tựu nổi bật. Không nhiều nhà nghiên cứu lại có gia tài văn xuôi gồm kịch, truyện ngắn, tiểu thuyết phong phú như một nhà văn chuyên viết văn xuôi. Anh viết cả ca kịch, kịch nói, truyện, rồi kịch bản phìm truyền hình, cuốn chân dung nổi tiếng các giáo sư khoa Văn trường Đại học Tổng hợp “Văn khoa chân dung kí’. Anh còn có hai tập thơ, một tập trường ca. Anh đã có 9 tiểu thuyết từ “Ngọn lửa tình yêu” (1987) đến “Cổng trường thời mở cửa” ((2006). “Ba người cùng làng” là cuốn tiểu thuyết thứ mười của anh. Sẽ là thiếu sót nếu không kể đến cuốn sách “Kì bí đi tìm y lí phương đông” liên quan đến lĩnh vực Y học. Một sức làm việc đáng kính nể, …
Với
tiểu thuyết “Ba người cùng làng”, nhà văn viết về ba nhân vật chính của làng
Lông Bông là Trưởng phòng Nguyễn Văn Diện, Tiến sỹ Phan Kì Nhân và tướng Đổng,
chồng của Đoàn Thị Mây. Nhưng đấy là ba nhân vật chính thôi. Cô Mây, người kể lại
câu chuyện ba người là người thứ tư. Điều thú vị là ba chàng Diện, Đổng, Kì
Nhân đều từng thầm yêu Mây, nhưng Mây chọn Đổng. Dẫu chỉ nói về ba người cùng
làng Lông Bông, nhưng câu chuyện lại phản ánh hình ảnh cuộc sống thu nhỏ của xã
hội thời hiện tại. Ở đây có những nhân vật lẫy lừng, Bộ trưởng Võ Hồng Vương
thành củi vào lò, nhà doanh nghiệp Võ kiếng (Phan Ân Võ) khét tiếng từng tuyên
bố với Chủ tịch tỉnh “Này, ông có thích ngồi đây hay muốn tôi bứng đi chỗ
khác”. Chủ tịch tỉnh phải cắp cặp đến tận nhà xin lỗi. Có Chủ tịch xã Nguyễn
Văn Vạn. Có nhà thơ lừng danh Phan Chí Cao được chủ tịch xã và dân xếp trên cả
giáo sư, Tiến sĩ. Lí do là “Giáo sư, Tiến sĩ thì ở huyện này, nhiều xã cũng có.
Nhưng nhà thơ…vâng nhà thơ…thưa bà con cả huyện này chỉ có một. một nhà thơ
Phan Chí cao là duy nhất” (tr.231).
Qua
ba nhân vật Diện, Đổng, Kì Nhân, người đọc biết được tình trạng chạy dự án,
tình trạng học thành Tiến sĩ thật và “tiến sĩ vãng lai”, tình trạng mua bán luận
văn thạc sĩ, Tiến sĩ; trình trạng khổ sở của bệnh nhân và người nhà khi bệnh viện
quá tải; tình trạng thầy thuốc “Nhoằng một
cái thành bác sĩ, tiến sĩ” nhưng người ta bị tật ở chân phải lại đi cưa chân
trái” (tr.104); con trai thầy Phạm Thịnh
bị sốt xuất huyết nặng nhưng cả Xanh Pôn lẫn Việt Đức không tìm ra bệnh, suýt
nguy đến tính mạng; rồi tình trạng gia
đình bị cuốn vào trào lưu xã hội, mỗi người một việc, một giờ ăn uống nên chẳng
còn “ bữa ăn truyền thống” nữa. Như lời nhân vật Mây, người kể chuyện: “bây giờ
cuộc sống no đủ hơn nhiều, nhưng không khí ấm áp trong gia đình dường như lại
trở thành món hàng đắt giá đến nỗi tôi có cảm giác dùng bao nhiêu tiền cũng khó
mua được nó” (tr. 214). Ba nhân vật cùng trong cái làng nhỏ bé nhưng cùng với
ba người đó là “bao nhiêu số phận, bao nhiêu kiếp người” từ hồi Cải cách ruộng
đất đến thời đổi mới bây giờ.
Người
làng đầu tiên được nói đến là Diện. Trưởng phòng Giáo vụ một trường Đại học lớn
Nguyễn Văn Diện. Anh sống hiền lành, lương thiện. Vợ chồng anh từng là hình mẫu
khiến bạn bè mơ ước. Ngay cả cô Mây, người kể chuyện cũng thú nhận: “Đó là cuộc
hôn nhân đã một thời làm cho tôi ngưỡng mộ, vì nó là biểu tượng của sự xây đắp
cuộc đời giữa một người lính trở về sau chiến tranh và một cô sinh viên xinh đẹp”
(tr. 82). Do Nga được cử đi làm chuyên gia ở Cam pu chia, nhờ chu trình buôn
bán quay vòng của Nga mà kinh tế nhà Diện khá nhất trong những người bạn. Mây,
người kể chuyện đã đánh giá chân thành: “Đối với tôi, những năm tháng này cuộc
sống của vợ chồng Diện như một mẫu hình của hạnh phúc, còn hai người, giống như
một cặp đôi hoàn hảo”. Thế nhưng, … không ngờ
cái mẫu hình hạnh phúc ấy lại tan vỡ, cặp đôi “hoàn hảo” lại biến thành cọc cạch
khi Nga nhất quyết bỏ Diện, vì anh không đáp ứng được nhu cầu tình dục… Diện đứt
gánh. Nhưng may mắn lấy được cô sinh viên bán quán cà phê trẻ đẹp. Lại sinh được
hai con trai để nối dõi tông đường. Nhưng, lại một bất ngờ nữa hóa ra cuộc tình
đó là một cuộc lừa đảo. Mai Ngọc lấy Diện, nhưng vẫn thậm thụt đi lại với người
tình cũ. Hai đứa con trai có với Diện hóa ra không phải con anh. Việc xét nghiệm
AND đã rành rành không còn gì nghi ngờ. Không những thế, Diện còn bị cô Mai Ngọc
kiện ngược, đòi chia tài sản làm 4 phần, Diện chỉ được một. Sau tòa xử chia
đôi, Diện không đủ tiền trả Mai Ngọc nên chịu nhận 4 tỉ và rời ngôi nhà anh một
đời tích cóp. Vì anh hiền lành quá, vì anh tin người quá nên thua cô vợ gian
ngoan. Kết cục anh sẽ về quê ở với người mẹ già sống cô đơn không nỡ ra thành
phố.
Người
làng thứ hai được kể đến là Tiến sĩ Phan Kì Nhân. Cuộc đời nhân vật này cũng li
kì khác thường. Võ kiếng, người cùng làng nói về Kì Nhân: “cái thằng cha Phan
Kì Nhân nó học hành kiểu gì mà hôm trước khoe với tôi mới bảo vệ luận án Tiến
sĩ. Ông còn nhớ chứ, thời cùng học với bọn mình, hắn học dốt nhất, lần nào bị gọi
lên bảng, miệng cũng ú ớ như ngậm hột thị. Khi hết phổ thông, thi mấy kì mới
vào được cái ngành Đại học văn chương nhờ thêm điểm con liệt sĩ và thành tích bắn
máy bay Mỹ […] Không biết hắn “chạy” kiểu nào,
bây giờ lại làm xong tiến sĩ rồi. Thật quých quá” (tr.56). Với Võ kiếng, tiến
sĩ Phan Kì Nhân “có dấu hiệu “cheng cheng”. Còn Đổng, chồng Mây thì nhận xét “
Thời phổ thông, gã ì ạch như rùa, thi hai ba lần đều trượt đại học, nhưng rồi
cuối cùng vẫn thành sinh viên. Học ở khoa văn chương, năm nào cũng phải thi lại.
Ấy thế mà, sau lại chiếm được cái bằng tiến sĩ. Gã ấy thì biết gì về triết học
mà lại có bằng tiến sĩ triết học!” (tr. 188). Chính Phan Kì Nhân cũng thú nhận
việc “mua” chương tổng quan cho luận án của mình: “Thuê viết cả cục thì mình
không có tiền. Nhưng cái chương quan trọng thì nói thật, cũng phải chi ra đôi
chục, vì đó là chương tổng quan và lí luận. Đây là chương khó nhất, đòi hỏi phải
có khả năng tư duy khái quát cùng với thời gian để đọc các tài liệu. Mà mình
thì các bạn biết đấy, làm biên tập, suốt ngày đã đọc toét mắt ra, còn đâu thời
gian đọc các công trình phục vụ luận án? Cũng may, dạo đó, công sá còn rẻ chứ
không như bây giờ” (tr.123). Dân
làng thì chả coi luận án tiến sĩ của Phan Kì Nhân là gì “Cái học vị Tiến sĩ bây
giờ khó tin lắm, chẳng biết hư thực ra sao. Trên các báo mạng, người ta đưa đầy
các tin về mua bán bằng cấp, luận án, luận văn, Chẳng biết chú Phan Kì Nhân có
viết luận án hay lại đi mua ở chợ? Mà nghe nói, đó là tiến sĩ về nghiên cứu Lịch
sử Đảng mới lạ! Lịch sử Đảng thì rõ ràng, chẻ hoe ra đấy, có gì mà phải nghiên
với chả cứu?” (tr.46 -47).
Gia đình Diện – Nga đổ vỡ vì Diện không đủ sức khỏe phục
vụ nhu cầu của Nga. Còn gia đình Phan Kì Nhân đổ vỡ vì vợ cả dâm đãng cho anh mọc sừng. Thúy Giang, người vợ thứ hai thì
không đủ sức phục vụ nhu cầu tình dục rất lớn của chồng, không chịu nổi tính
gia trưởng, lỗ mãng và ghen tuông của anh. Cô Lam, cháu ông bạn cờ thì lấy Phan
Kì Nhân để có chỗ trú thân. Ban đầu Phan Kì Nhân hãnh diện vì vợ trẻ. Nhưng khi
anh bị con trai vợ cả đánh gẫy chân, phải nằm viện thì nói về ba người vợ của
mình với giọng yếm thế: “Toàn là lừa
đảo, lừa đảo hết ông ạ. Tôi bất hạnh lắm. Tôi bất hạnh chỉ vì tôi ngu. Hết sức
ngu ông ạ” (tr. 217).
Một
điều kì lạ là bản thân cũng phải thuê viết một chương của luân án Tiến sĩ. Thế
mà sau đó Phan Kì Nhân lại đi viết thuê luận án cho người khác. Anh không cho rằng
điều đó không những trái với đạo đức người làm khoa học mà còn vi phạm pháp luật
nữa. Mồm thì nói đạo đức của người Đảng viên, nhưng tay thì viết thuê luận án.
Bị bạn học là Đổng phê phán quyết liệt, nhưng Kì Nhân “luôn một mực cho rằng, trong thời buổi quan tham đầy rẫy như bây giờ
thì việc anh viết thuê luận án vẫn là thứ lao động chính đáng” (tr. 239). Một
“tiến sĩ vãng lai” như Phan Kì Nhân, lại viết thuê đến “hàng chục luận án tiến
sĩ” như lời ca ngợi của Chủ tịch xã Nguyễn Văn Vạn cho thấy trình độ các tiến
sĩ, nhất là các quan chức không có thì giờ học hành, …
Người
thứ ba là Đào Văn Đổng, chồng của Mây. Cả hai vợ chồng nhà này đã trải qua hoàn
cảnh khó khăn trong đời sống. Cuốn thuốc lá hì hụi nhưng không thành công. Bán
bia “sinh tố” thì được một lần, lần sau trục trặc, giở khóc dở cười vì không trả
lại được hàng bị người dùng tẩy chay. Lỗ nặng! Đổng may mắn quen được Võ kiếng.
Nhờ anh bạn người làng hỗ trợ, vợ chồng Đổng chạy được Dự án. Nhờ tài khéo léo
của Mây nên Giám đốc Bùi Công Chất chọn Đổng (mới là thạc
sĩ) chứ không chọn TS. Trần Mạnh Tiến kế vị. Đổng cùng Mây qua Diện để liên hệ
với các thầy luyện thi, chấm thi. Thế là Thảo, con gái họ đủ điểm vào Đại học.
Hai người trả công cho Diện bằng phong bì và trả công cho thầy tương đương một
xe máy đắt tiền. Mây cùng Đổng, với sự giúp đỡ của Đại tá Lê Văn Núi, Phan Ân
Võ (Võ kiếng) và vị Thứ trưởng còn “chạy” qua 32 cửa để Đổng được lên tướng, dù
hồ sơ của anh quá tuổi một ngày. Hai người bạn đều khen vợ chồng Đổng Mây là hạnh
phúc nhất. Họ đâu biết “Có biết bao cuộc cãi vã giận hờn giữa tôi và Đổng mà
đơn li dị đã được kí xong, xếp vào tủ cao đến hàng mét” (tr. 165). Mây đau xót
vì Đổng có con riêng mà cái Thảo đã về tận nơi để điều tra. Nhưng Mây không đủ
sức để dứt bỏ Đổng. Mây cũng không làm ầm lên vì chuyện Đổng có con riêng. Cô
biết rằng nếu tổ chức điều tra ra, Đổng sẽ bị khai trừ khỏi Đảng, đồng nghĩa với
mất hết chức tước và quyền lợi. Ấy là chưa kể Mây sẽ li hôn. Con cái đứa ở với
cha thì không mẹ, đứa ở với mẹ thì không có bố. Thế nên trong con mắt mọi người,
gia đình Đổng Mây vẫn là một gia đình thành đạt, hạnh phúc!
Như
thế là ba người cùng làng, ba anh xếp vào hàng ngũ trí thức thì gia đình đều có
vấn đề. Diện, Kì Nhân thì tan vỡ, còn Đổng thì không vỡ, nhưng cũng chỉ là hạnh
phúc yên ấm bề ngoài, …
Đây
là tiểu thuyết thứ mười của nhà văn Hữu Đạt. Anh đã có kinh nghiệm viết các tiểu
thuyết trước. Cuốn sách không dài, nhưng đặt vấn đề cảnh báo nhiều chuyện của
xã hội: Việc làm dự án, việc học hành thi cử của lớp trẻ, việc chạy chức, chạy
quyền, việc đào tạo tiến sĩ chính ngạch và “tiến sĩ vãng lai”, việc tan vỡ của
các gia đình, việc khổ sở của bệnh nhân, việc hội làng, hội đồng môn, đồng
hương, …
Điều
quan trọng nhất của một tiểu thuyết là dựng được các nhân vật có tính cách và số
phận hấp dẫn. Cùng với điều đó là cách dẫn
chuyện uyển chuyển, cuốn hút người đọc. Tuy là tất cả đều do một nhân vật (cô
Mây, vợ Đổng) kể lại, nhưng tác giả xử lí rất linh hoạt. Có kể, có tả, có đối
thoại, có phân tích tâm lí, … bởi vậy mà
đọc rất vào. Việc chỉ kể qua nhân vật xưng tôi này, có một nhà văn khác cũng rất
thành công là Nguyễn Phúc Lộc Thành trong tiểu thuyết 4 tập gần 2000 trang “Cõi
nhân gian”.
Xin
chúc mừng thành công của nhà nghiên cứu, nhà văn Hữu Đạt.
Hà Nội,
13 tháng 3 năm 2025
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét