Thứ Tư, 8 tháng 5, 2013

CHÙA TRÈM





CHÙA TRÈM
Đường Văn
         
          Hàm Long Tự là tên chữ của chùa Trèm, một cái tên đẹp trang nghiêm, như tên chữ nhiều chùa khác: Sùng Phúc Tự, Tuệ Phúc tự, Tam Bảo tự, Long Giáng tự, Diên Hựu Tự, Diên Khánh Tự… (Tự nghĩa là chùa, nơi thờ Phật). So với nhiều chùa khác, chùa Trèm làng tôi cũng chỉ vào loại trung bình, cả về quy mô, lịch sử cũng như về vị trí tọa lạc, khả năng thu hút con nhang, Phật tử và khách thập phương thăm viếng. Đọc bản dịch bi ký còn lại trong chùa, nghe các cụ trong làng kể lại, tôi mới biết sơ sơ, lỗ mỗ, rằng chùa Trèm đựơc khởi dựng từ thời hậu Lê, khoảng 500 năm trước. Thoạt kỳ thủy, vốn rất nhỏ hẹp. Về sau được vợ chồng cụ Nguyễn Đình Ban (còn gọi là cụ Sãi) trong làng, phát tâm công đức, mới được mở rộng diện tích, xây dựng thêm khang trang, bề thế, uy nghi gần như ngày nay. Đồ thờ tự trong Chùa Trèm có gì đặc sắc, độc đáo so với các chùa trong vùng? Có lẽ đó là 2 bức tranh lớn vẽ Hộ pháp và bức tượng Phật nằm. Theo tôi được biết, tại hầu hết các ngôi chùa khác trong cả nước ta, 2 vị Hộ pháp (ông Thiện, ông Ác bảo vệ chùa) đều được đúc tượng lớn bằng gỗ hoặc đất sét sơn son thiếp vàng, tư thế ngồi, hai bàn tay đặt trên đầu gối. Riêng ở chùa Trèm, hai vị thần này được vẽ thành 2 bức chân dung màu lớn, với kích thước (~ 1,4 . ~ 2,1m). Nét vẽ bay lượn, mềm mại, uyển chuyển, nhìn qua có vẻ đơn giản, xem kỹ mới thấy ngọn bút họa sỹ dân gian thật tài hoa, tinh xảo, điêu luyện. Tranh tường được đặt trang trọng như bình phong 2 bên tả, hữu tam bảo điện. Không biết tác giả là ai và thời điểm vẽ tranh bao giờ! Chỉ biết: khi tôi còn rất nhỏ, theo bà nội, theo mẹ ra lễ chùa thì đã thấy có ở đó rồi. Về 2 bức hộ pháp vẽ này, trong dân gian vùng Trèm – Vẽ và dọc ven sông Hồng vẫn lưu truyền một giai thoại lý thú. Đó là chuyện về đôi câu đối Nôm mà tương truyền người ra vế 1 là cụ đồ Nguyễn Quốc Trụ, một trong hững bậc đại sư lừng tiếng của làng vào thế kỷ 19, ra cho học trò. Nghe đâu, người đối chỉnh hơn cả, được cụ khen ngợi là 1 học trò người làng Kẻ (Thượng Cát).

          - Vế ra: Chùa Trèm, Hộ pháp Vẽ.
          - Vế đối: Đình Kẻ, lợp ngói Dày.
          Điều thú vị, sâu sắc ở đôi câu đối này là chỗ: không chỉ điểm tên 4 làng nổi tiếng văn hiến, văn vật dọc dải hữu Hồng: Dày (Liên Trung), Kẻ (Thượng Cát), Trèm (Thụy Phương), Vẽ (Đông Ngạc) mà còn có sự chơi chữ thông minh, sự hoán đổi từ loại giữa vẽ: động từ  và vẽ (tên làng) danh từ; dày (/mỏng): tính từ và dày (tên làng): danh từ. Đây chính là điểm mấu chốt tạo nên sự hiểu lầm nơi người đọc, được gây nhiễu bởi tài nghệ cuả người ra vế đối. 2 bức hộ pháp vẽ ấy, cứ có dịp mỗi lần vào lễ chùa, tôi lại một lần ngắm nghía kỹ lưỡng từ tổng thể đến từng nét và càng khâm phục tài nghệ của người họa sỹ khuyết danh nào đó trong việc thể hiện hai bức chân dung ông Thiện, ông Ác rất có thần.
          Bức tượng Phật nằm, (độc đáo ở chỗ hầu hết các pho tượng Phật, La Hán đều được tạc ở tư thế ngồi hoặc đứng), tiếc thay từ lâu (không biết chính xác năm nào?!) đã được/bị cán bộ Bảo tàng Lịch sử hay Mỹ thuật gì đó mượn, trưng bày lâu dài để cả nươc chiêm ngưỡng thần vật của làng Trèm! Cho đến nay, không hiểu sao, vẫn chưa đem trả lại chùa?!
          Kiến trúc chùa Trèm dựa sát chân đê hữu Hồng, quay mặt hướng tây nam, phía tây thôn Đại Đồng. Hướng rất phù hợp với chùa chiền (vì Phật Tổ ở Tây Trúc, Ấn Độ). Đầu những năm 60 thế kỷ 20, xung quanh, và cả trong khuôn viên chùa, cây cối um tùm cổ thụ: Những lũy tre xanh từ chân đê vượt lên mặt đê xào xạc gió, dãy nhãn, vải, sấu, bạch ngọc lan, khế ngọt, khế chua sù sì nâu mốc, tán xanh xòe rộng không chỉ làm tăng cảnh mát mẻ, u tịch cho không gian Phật giáo mà còn đặc biệt hấp dẫn, cuốn hút lũ trẻ con nghịch ngợm chúng tôi. Không nhớ hết bao nhiêu buổi trưa nắng gắt, buổi tối trăng suông mùa hè nóng nực hoặc mùa thu hây hẩy hanh heo, tôi và Nhu, Bài, Phu… mấy đứa bạn thân cùng xóm, quần cộc cháo lòng, áo may ô ba lỗ, lợi dụng lúc sư thầy trụ trì đang ngủ trưa hay mải tụng kinh, niệm Phật trên tam bảo, hè nhau bí mật trèo tường, đột nhập, tót lên cây, trộm quả. Tranh thủ thời gian, vặt đại, nhét đầy bụng quả chín, quả ương, cả quả xanh. Nào nhãn, nào vải, nào khế,… Rồi tụt vội xuống, vọt qua tường, dông thẳng lên dốc đê bờ sông, cùng nhau hể hả giải quyết chiến lợi phẩm trong niềm sung sướng, hãnh diện rất trẻ con. Tất nhiên, trong đầu óc lũ nhóc tì khi ấy, cũng thoáng qua sự sợ hãi vì bất kính, có thể sẽ bị thần Phật giáng tội. Nhưng vì đói khát, thèm thuồng, mùi vị thơm ngon của quả chín cây chùa đã quá mê hoặc, dẫn dụ, khiến chúng tôi quên hết mọi sự hiểm nguy, tai vạ. Có lần, làm tiểu đạo trích như thế, tôi đã suýt bị bắt. Ấy là vào 1 đêm trăng sáng mùa hè. Nhìn trước nhìn sau, đường chùa vắng ngơ vắng ngắt, tôi trèo tót lên cây nhãn sau cổng chùa, vặt quả rào rào. Đang hăng hái vin cành, bẻ trái thì bỗng có tiếng kêu lớn ngay dưới gốc: - Ai? Ai trẩy nhãn trên đó? – Thôi bỏ mẹ! Tiếng sư thầy! Không kịp nghĩ ngợi lôi thôi, chẳng biết ở dưới có gì  nữa, tôi lập tức buông tay, nhún chân, nhảy ào xuống ao chùa đang gần cạn nước, bì bõm lội thục mạng, một mạch độ hơn 3 m, hốt hoảng vọt lên bờ, phóng thẳng 1 mạch vào xóm, chạy tọt vô nhà, đóng kín cổng lại, run lập cập vì sợ và mừng thoát nạn. Thế mà chỉ tuần sau, vụ trộm mít mới lại được tổ chức vào 10h tối thứ bày. Và chúng tôi lần này đã thành tựu lớn: vác được quả mít mật to ra chôn giấu tận ngoài bờ mương, gần Văn chỉ để thưởng thức dần. Ấy, tuổi thơ của chúng tôi ngỗ nghịch, khó chịu, hư đốn như vậy đấy! Nhưng ngạc nhiên là, đến tuổi 15, 16 thì dù không đứa nào bảo đứa nào, đều tự chấm dứt những trò mèo dại dột đó. Nhưng chùa Trèm thâm u, tĩnh lặng vẫn là một trong những thiền môn ắp đầy kỷ niệm hoa niên của lũ choai choai xóm Đông Chi, Đông Trù, Đông Quan, Ngõ Đồng…
          Khi ấy (đầu những năm 60 thế kỷ 20), chùa trở thành xưởng dệt. Hai dãy nhà giải vũ, nhà hậu thờ hai cụ Sãi xây chùa, biến thành nơi đặt hàng loạt khung máy dệt cửi, dệt vải. Gốc khế cổ thụ sau chùa thành nơi ngâm sợi, quay sợi… Chính vị sư thầy Đàm Hà nổi tiếng xinh đẹp, đáo để, da dẻ trắng nuột, răng hạt na đen nhưng nhức, tiếng trong, vang như chuông, giờ cũng thành một nữ xã viên Hợp tác xã Dệt Thụy Phương. Từng có đoạn thơ tả lại sự biến đổi công nghiệp hóa len chân vào chốn Phật đường như sau:
Chùa Hàm Long rầm khua tiếng mõ
Giọng ni cô nho nhỏ tụng kinh
Sống cuộc đời khổ ải tu hành,
Ngày lao động với ngành dệt cửi.
                                                                                   (Khuyết danh)
         
          Tối tối, tiếng tụng kinh nho nhỏ của sư thầy trên tam bảo điện bị át đi bởi tiếng thoi reo lách cách, tiêng trò chuyện râm ran của vài chục nữ xã viên đang làm ca 2.
          Căn nhà lá ba gian mới được dựng vội dành cho gia đình ông chủ nhiệm HTX cận thị, gù lưng ngoài 50 hom hem nhưng lại có cô con gái rượu đang tuổi chanh cốm, mặt trái xoan, nói năng điệu đà, khiến Phu, bạn tôi chết mê chết mệt. Không nhớ đã bao lần hắn lượn lờ quanh cửa sổ nhà nàng, tìm mọi cách gọi mời người yêu trong mộng ra cổng chùa, quán cụ Vụng tâm tình, mà 10 lần may mới được một. Và rồi cuối  cùng, chuyện tình mê mẩn đơn phương, đơn điệu, trẻ ranh ấy cũng chẳng đâu vào đâu! Quýt, một thằng bạn khác của tôi và tôi lại cùng ngưỡng tưởng một em xã viên trẻ khác, béo tròn, trắng hồng, mắt sắc lẻm, nói năng ỏn ẻn. Chúng tôi đã cùng vài lần trèo trộm hái từng vốc hoa bạch ngọc lan trong sân chùa để gửi tặng nàng. Nàng cứ nhận hoa một cách vui vẻ, rất tự nhiên, he hé nụ cười hết sức quyến rũ nhưng chẳng hứa hẹn điều gì?! Cả tôi lẫn Quýt, khi ấy, hàm cũng tự nhiên cứng lại, chẳng biết nói câu gì, hẹn hò điều gì! Ngố, lố hết chỗ nói!
          Cổng chùa hồi ấy đá có quán nước cụ Chiệc, rồi cụ Vụng. Quán lợp tranh, tuềnh toàng chống đỡ bởi mấy khung cột tre nhỏ. Nền đất nện. Trên chiếc chõng tre lên nước bóng như sừng bày lểnh khểnh vài lọ thủy tinh: kẹo lạc, kẹo dồi, lạc rang.  Treo lửng lơ toòng teeng nải chuối tiêu lốm đốm trứng cuốc, chuối tây chín vàng thơm. Hộp kính đựng vài bao thuốc lá Trường Sơn, Bông lúa, Tam Đảo, Điện Biên và cả thuốc lá cuốn vàng suộm. Một chiếc điếu cày dài thườn thượt dựng cạnh thành chõng. Bó đóm cật tre mỏng tang cụ ông chẻ giúp cụ bà. Giỏ nước chè tươi, giỏ nước vối đậm sánh, nóng rẫy, nghi ngút tỏa hơi. Tôi đã từng nhiều lần mải mê ngắm mấy ông chú, bà bác làm đồng về, tạt qua, vào quán nghỉ tạm, uống ừng ực cả bát đàn nước vối chát thơm, nóng hổi, rít điếu thuốc lào đến tụt nõ, phả khói trắng nhạt tuôn từ hai lỗ mũi như hai cái vòi voi. Các vị lão nông tri điền làng Thụy bàn tán chuyện làng, chuyện xóm ồn ào. Tay quạt nan, quạt nón phành phạch, cố xua cái nắng chảng trưa hè vẫn hầm hập khô rang, mặc dù trước mặt, bên cạnh là ao Đấu, ao Chùa nước xanh im phăng phắc cũng chỉ phả hơi mát phần nào. Con bò, con trâu buộc hờ bên gốc gạo cỗi bờ ao, cọ lưng vào thân cây, gãi sồn sột, chốc chốc lại ò lên 1 tiếng như muồn trút bớt cái nóng oi khó hiểu ra khỏi tấm thân trâu bò cục mịch!
          Cái quán quê đầu làng, bên cổng chùa Trèm thân thương ấy, không hiểu sao mỗi năm qua, lại cứ vắng khách dần? Rồi khi cả hai cụ chủ quán, hiền từ như những cụ bà trong cổ tích, lần lượt héo sữa thì quán nước cũng bị giỡ đi, để trơ nền đất trống cũng đã hơn 40 năm. Khoảng mấy năm sau, khu đất ấy, xây dựng cây tháp, bên dưới đặt cốt sư thầy Đàm - vị ni cô đã suốt đời tu hành, gắn bó với chùa Trèm, làng Trèm.
          Ao Chùa, ao Đấu, ao Cụ Bi, ba cái ao vừa sâu vừa rộng liền kề nhau là bộ ba bể bơi làng của lũ trẻ chúng tôi. Từ trên bờ ao lát gạch lục, gạch bát tràng, phiến đá xanh, anh Dâu cởi trần trùng trục, khoe bộ ngực nở vồng, tấm lưng cánh phản và cặp đùi ếch rắn căng, nhảy ào xuống ao mát rượi, trong xanh, bơi ào ào ra giữa, miệng phun nước phì phì như cá voi. Chúng tôi nhìn theo thích thú và cũng ào ào, nhô nhốp nhảy theo như đàn ếch em nhảy theo ếch anh hai, anh cả. Một cuộc tắm, lội, lặn thoải mái thông trưa. Hết từ ao Chùa, bơi sang ao Đấu, thi lặn lâu, lặn sâu ở ao cụ Bi… Chưa chán, lại rồng rồng kéo nhau ra mương, nhảy cầu bê tông, vầy nước trận nữa. Một lũ lớn bé, nối đuôi nhau vừa chạy huỳnh huỵch vừa hò reo, náo động cả xóm, thích thú vô cùng. Ao Đấu, ao cụ Bi, từ lâu, đã bị lấp bằng. Từ đó, mọc lên những tòa biệt thự tân kỳ 2, 3 tầng. May, chỉ còn ao Chùa tù đọng, nước vẩn xanh ngầu (1 trong 3 cái ao còn lại của làng hiện nay). Không chỉ mấy gia đình quanh ao như nhà ông Gia, ông Bá, ông trưởng thôn Vương mà hết thảy dân làng Trèm đều tha thiết mong mỏi công trình kè bờ ao Chùa, xây tường bao quanh, được sớm sớm thi công.
          Chùa Trèm, từ những năm đầu thế kỷ 21 đến nay, trải hơn 1 thập kỷ, dưới sự trụ trì của sư thầy Thích Đàm Minh, một vị nicô nóng tính, nhưng năng nổ, nói năng chẳng mấy dịu dàng nhưng khéo biết cách tận dụng, khuếch trương hằng tâm, hằng sản của Phật tử làng Trèm, con nhang, đệ tử và khách du thập phương, dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy và UBND xã, đã làm được nhiều việc thiện, hữu ích thực hiện lộ trình trùng tu, tôn tạo lần lượt các hạng mục của Hàm Long Tự, mà tiêu biểu nhất, gần đây nhất được thành tựu trong lễ khánh thành Dự án Trùng tu – tôn tạo tam quan, nhà giải vũ, bảo tháp, sân chùa, được tổ chức trọng thể, trang nghiêm vào một buổi sáng mùa xuân tháng 2 năm Quý Tỵ (2013).
          Chùa Trèm hiện nay, cũng như đền công chuá Triệu Trường (?) trên Hoàng Liên (Liên Mạc), chùa Vẽ (Diên Khánh Tự, Đông Ngạc) không chỉ là những ngôi chùa làng thờ Phật tôn nghiêm, thỏa mãn niềm tin tôn giáo, xem ra ngày càng sùng tín, của nhân dân ba làng mà còn thu hút Phật tử và khách du quanh vùng, rộng ra nhiều nơi trong nước, kể cả nước ngoài đổ về chiêm bái. Riêng quần thể Hàm Long Tự, cùng với Đình Trèm, đến Thiện (thôn Đình), nhà thờ Thiên Chúa giáo họ thánh Phêrô (thôn Hồng Ngự) trận địa tên lửa Cầu Gạo, đài tưởng niệm liệt sỹ xã Thụy Phương (Đồng Sau)… đã trở thành khu di tích văn hóa truyền thống – cách mạng, niềm tự hào về bản sắc văn hóa độc đáo, hào hùng, đẹp đẽ của nhân dân làng Trèm – xã Thụy Phương xưa và nay. Chỉ mong sao chùa Trèm – Hàm Long Tự giữ vững và phát huy được truyền thống văn hóa tâm linh thanh sạch của nhân dân làng Trèm, giảm thiểu và không bị xu hướng thương mại hóa, quan phương hóa (đang phát triển khá phức tạp ở nhiều đình chùa, di tích, danh lam thắng cảnh khác trên cả nước ta) làm cho biến dạng, tầm thường, mai một./.
Hạ tuần tháng 4 Quý Tỵ. ĐV

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét