Chuyên mục
Thứ Sáu, 30 tháng 4, 2021
THĂM VIẾNG KHU TƯỞNG NIỆM CỤ TẢN ĐÀ.
ĐỌC THƠ ANH THƠ
ĐỌC THƠ ANH THƠ
BÙI MINH TRÍ
Bước vào thơ mới với đam mê
Toàn cảnh tranh quê Bức vẽ thơ
“Cánh bướm rập rờn trôi trước gió”
“Trâu bò thong thả cúi ăn mưa”
“Trời trong xanh biếc làn mây
trắng
Lộng thổi nồm nam diều cánh no”
“Rào rạt dầm mưa sông bến vắng”
Mặc thuyền cắm lại đậu chơ vơ”
Nghe “Hương xuân” tỏa chiều man mác
“Theo cánh chim câu” từ bến “Xưa”
“Hoa dứa” rung rinh hòn “ Ðảo ngọc”
“Mùa xuân “ hoa thắm trời xanh lơ
Tâm hồn khoáng đạt khát khao sống
Thầm lặng hy sinh chốn hậu phương
Đau xót vượt lên vì chiến thắng
Mảnh mai phụ nữ dáng kiên cường.
Bùi Minh Trí
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Anh Thơ (25 tháng 1 năm 1921[ - 14 tháng 3 năm 2005), tên thật là Vương Kiều Ân, các bút danh khác: Hồng Anh, Tuyết Anh, Hồng Minh; là một nhà thơ nữ Việt Nam. Anh Thơ sinh tại thị trấn Ninh Giang, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương; quê quán: thị xã Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Cha bà là một nhà nho đậu tú tài và ra làm công chức cho Pháp nên phải thuyên chuyển nhiều nơi, Anh Thơ cũng phải đổi trường học từ Hải Dương sang Thái Bình rồi về lại Bắc Giang mà vẫn chưa qua bậc tiểu học. Ban đầu, bà lấy bút danh Hồng Anh, sau mới đổi thành Anh Thơ.
Thứ Năm, 29 tháng 4, 2021
CHIẾC ĐỒNG HỒ CỔ
CHIẾC ĐỒNG HỒ CỔ
TRUYỆN NGẮN CỦA VŨ THIỆN KHÁI
Tôi hỏi nguồn gốc ngôi nhà cổ mặt tiền hướng ra con sông nhỏ chảy qua lòng thị xã T, nhiều người lắc đầu: Không biết. Mấy ông tuổi tóc muối tiêu, nói kiểu nước đôi: Không của me sừ Tây cũng của chú chệt Tầu. Người Việt mình ai ưa nổi kiều nửa Âu nửa Á vậy. Một vị bô lão thổ địa vùng này cũng lơ mơ: Hồi còn thò ló mũi xanh, đã thấy bỏ hoang. Nghe nói của viên thẩm phán thời Pháp thuộc. Chỉ mình ông nhà văn già, gốc gác lâu đời ở đây thông tin gần gần chính xác: Của ông công sứ Pháp. Đến tuổi nghỉ hưu, đã về chính quốc vài năm, chả biết lý do gì, đột ngột một mình quay lại An Nam, cất ngôi nhà ấy. Sinh thời, ông nội tôi và ông Tây ấy thi thoảng có qua lại uống trà với nhau. Nhà tôi còn giữ tấm hình hai người chụp chung vào khoảng đầu thế kỷ hai mươi. Nước ảnh đã hoen ố, nhưng vẫn nhận ra ông tôi lơ thơ ba chòm râu bạc. Ông Tây tóc xoăn chấm vai, râu rậm, miệng ngậm ống vố. Ông ta mất trước nội tôi. Ngôi mộ được đánh dấu bằng một khối đá vuông vức không ghi tên tuổi. Tôi đồ chừng vẫn còn nằm quanh quanh bờ sông này. Bây giờ nhà cửa, đường xá mở mang đè lên rồi, e rất khó tìm.
Sau ngày thông nhất Bắc Nam, tôi liều cất căn nhà nho nhỏ trên miếng đất vô chủ cách ngôi nhà cổ ấy khoảng vài cây số. Bấy giờ, con sông này còn vô tư sống đời sống tự nhiên thuở hồng hoang. Hai bờ um tùm rậm rạp nhiều loại cây hoang dại. Chim chóc quần cư trú ngụ cùng rắn rết, côn trùng. Tiếng kêu của chúng chao chác mỗi hoàng hôn buồn bã. Mỗi kỳ con nước dâng cao, từng hồi bìm bịp gọi nhau vang vọng. Chốc chốc, một con vỗ cánh bay lên, chớp lóe một ngọn đuốc màu nâu xỉn rồi vụt tắt. Cách nay mấy chục năm, còn hoang vu vậy. Vài thế kỷ trước nơi đây lạnh lẽo hoang vắng đến đâu. Tôi nghĩ ông Tây ấy phải là người được văn hóa Á Đông quyến rũ đến mức nào mới quyết tâm xa lánh thị thành hoa lệ, dành trọn những năm cuối đời về sống cùng chim muông cây cỏ. Từ ngày thị xã lên cấp thành phố, con đường đất ven sông san ủi thành đại lộ. Đôi bờ xây kè đá. Nhiều ngôi nhà cao tầng liền khít nhau mọc lên soi mái ngói đỏ tươi xuống mặt sông vừa được dọn sạch quang những dề lục bình lưu cữu chả biết tự bao giờ. Nhưng ngôi nhà cổ nửa trên rêu phong hai mái ngói mũi hài kiểu kiến trúc năm gian Nam bộ, vẫn không hề mảy may thay đổi. Nửa dưới, còn nguyên trạng bốn bức tường vững chãi xây chèn giữa những trụ bê tông thay cho hai hàng cột cái, cột quân truyền thống chân kê đá tảng. Mỗi vòm cửa sổ bán nguyệt ngoài hiên, mỗi khung cửa ra vào vẫn được bảo tồn nguyên vẹn mấy đường viền đắp nổi, chính giữa thắt một nút hoa văn cầu kỳ lạ mắt. Trên mỗi mỗi đầu trụ bê tông đều đắp nổi một đầu người đội vòng nguyệt quế y chang phong cách trang trí mặt trước các lâu đài quý tộc Pháp thu nhỏ lại.
Từ ngày, hội Văn Nghệ Tỉnh T… được phân ngôi nhà cổ này làm trụ sở, hằng năm tôi về đây dự họp mấy lần. Lần nào tâm trí cũng bị hút vào những thanh xà ngang, xà dọc bằng gỗ quý đen nhức nước thời gian im lìm phía trên đầu. Nhà không trần, thoang thoáng nhiều cánh dơi không tiếng động vọt qua ô cửa gió. Vòm mái cao vừa đủ để khí nóng bức không đủ sức tỏa xuống không gian phòng ốc. Lại vừa đủ rộng cho tiếng nói ở dưới âm vang cộng hưởng, khiến lòng dạ ta lâng lâng như bị lạc vào một ngôi giáo đường cổ kính. Trong không gian ấy, đã nhiều lần, tôi cảm thấy, khi từ bức tường trước mặt, khi từ ô cửa vô hình nào đó rót vào tai tôi thánh thót chùm giai điệu vô cùng quen thuộc: Đinh… Đình… Đông… Đinh. Đình. Đông. Đó là tiếng nhạc chuông báo thức từ chiếc đồng hồ cổ trong nhà học của anh em tôi thưở xa lơ xa lắc chốn quê nhà. Tôi nghi hoặc hỏi người ngồi cạnh, nhận được cái lắc đầu, chẳng nghe gì. Cũng tại hành lang ngôi nhà này, mới vài ngày trước, tôi bàng hoàng bắt gặp một bóng cụ già cao lớn, mồm ngậm tẩu thuốc, tóc bạch kim phủ trùm sau gáy, êm ru lách qua mấy ông văn sĩ rồi biến vào khuôn cửa văn phòng hội. Tôi không cho là ảo giác. Bởi cùng lúc ấy, còn ý thức rõ ràng anh họa sĩ trẻ giơ một ngón tay chỉ chỏ về phía tôi, miệng lắp bắp câu gì đấy. Tan họp, anh ấy hỏi: Khi nãy bác xuất thần ý tưởng gì mà chu môi, chú mục đến đờ đẫn vậy? Nói ra thì chắc chắc họ bảo tôi bị tâm thần.
Thứ Ba, 27 tháng 4, 2021
CHÙM TỨ TUYỆT - NGUYỄN KHÔI
Thứ Hai, 26 tháng 4, 2021
BÀI THƠ "CHA TÔI" VỚI LỜI BÌNH
- CHA TÔI
(Đăng tuần san Đời sồng gia đình Số 01 ngày 07 / 01/ 2021)
Tân Quảng
Tinh sương cha đã ra đồng
Mặt trời lấp loá vỡ trong rãnh cày
Bốn mùa chai cộm bàn tay
Nón mê chân đất người gầy chắc đanh
Bạc sờn áo lính mỏng manh
Nhà nghèo vách đất mái gianh tuềnh toàng
Rượu vài chén mặt đỏ vang
Cha ngồi cấm cúc ngô rang thuốc lào
Một mình đóng gạch đào ao
Mẹ thì lăn lóc mấy sào ruộng chiêm
Với con cha chỉ một niềm
Gắng công đèn sách mà nên thân người
Bao nhiêu mùa đã qua rồi
Con ra thành phố xa nơi ruộng đồng
Bóng cha thấp thoáng lưng còng
Đói no thơm sạch tấm lòng thẳng ngay
Thương cha khoé mắt mặn cay
Rưng rưng con nhớ những ngày còn thơ
Cha đi tự bấy đến giờ
Đêm qua lại gặp trong mơ cha về.
LỜI BÌNH CỦA NGUYỄN THỊ THIỆN
“ĐÓI NO THƠM SẠCH TẤM LÒNG THẲNG NGAY”
Đọc bài thơ "Cha tôi" của nhà thơ Tân Quảng đăng trên Tạp chí Thơ của Hội Nhà văn (số 3 - 4 năm 2020) tôi rất xúc động. Thi phẩm tái hiện chân thực hình ảnh người cha cựu chiến binh vừa buông tay súng trở về lại tần tảo nắng sương với những công việc nhà nông lam lũ, cực nhọc. Qua đó tác giả gửi gắm tấm lòng tri ân và nhớ thương cha vô cùng sâu nặng.
Chủ Nhật, 25 tháng 4, 2021
NHỮNG NGƯỜI CÓ ÓC HÀI HƯỚC HÀNH XỬ RA SAO KHI GẶP KHÓ KHĂN
Thứ Bảy, 24 tháng 4, 2021
VIẾNG NHÀ THƠ HOÀNG NHUẬN CẦM
NIỀM KHÁT KHAO MÙA CHIM LẠC BAY VỀ
BÌNH BÀI THƠ “ĐỨNG Ở CHỢ SÔNG”CỦA NHÀ THƠ TRÚC THÔNG
BÌNH BÀI THƠ “ĐỨNG Ở CHỢ SÔNG”CỦA
NHÀ THƠ TRÚC THÔNG
ĐỨNG Ở CHỢ SÔNG
Ai đi lâu lắc tận đẩu tận đâu
bến vẫn bèo xưa trôi xuôi sông Châu
quán chợ quê hương gạch tường long đỏ
còng cây đa đứng vẫn như thưở nào
mẹ tôi đội thúng đậy mảnh vỉ buồm
đường hè chân rát đường đông bấm bùn
tôi rắc tuổi thơ loanh quanh phố chợ
chút tình thơ dại bây giờ tôi buôn
bán cho vợ con lần đầu thăm quê
bán gởi cho ai xa nước chưa về
bán cho chị tôi thưở hai mươi ấy
cùng những linh hồn lơ lửng trên quê…
Báo “Văn Nghệ số 45 (5-11-2011)
LỜI BÌNH CỦA THANH ỨNG
Trúc Thông viết chậm, bài nào của anh cũng có sự gia công kĩ lưỡng về cảm xúc và sử dụng ngôn từ. Bài “Đứng ở chợ Sông” trên đây cũng vậy. Nhà thơ không cho biết bài thơ sáng tác khi nào. Nhưng đọc bài thơ có thể đoán, nhà thơ sinh năm 1940 này viết bài thơ khi đã luống tuổi, khi đôi chân anh đã bươn bải nhiều nơi trên trái đất này như nhà thơ đã tự nhận: “Ai đi lâu lắc tận đẩu tận đâu”. Tất nhiên đại từ phiếm chỉ “Ai” không chỉ nói riêng tâm sự của Trúc Thông mà còn nói về những ai đồng tuế, đồng cảnh như tác giả. Thời gian làm biến cải bao nhiêu thứ nhưng cái “chợ Sông” của quê hương tác giả vẫn thao thiết những nét xưa “bến vẫn bèo xưa trôi xuôi sông Châu / quán chợ quê hương gạch tường long đỏ / còng cây đa đứng vẫn như thưở nào”. Một “chợ Sông” được chấm phá đôi ba nét tượng trưng mà hiện lên một cái chợ bên dòng sông Châu ở quê hương Hà Nam của tác giả với những đám bèo trôi xuôi vô tư tự ngày nào, là những mảng tường gạch xây đã lâu ngày, thời gian xói vào trơ ra ruột gạch “long đỏ” và cây đa còng vẫn khắc khổ dáng xưa. Đó là chợ quê lâu đời, có quán gạch được xây cất tử tế của một làng quê cổ kính bên sông. Nó khác với cái chợ ở “mom sông” “eo xèo mặt nước” của cụ Tú Xương. “Đứng ở chợ Sông” lặng lẽ và trầm mặc này, Trúc Thông nghĩ về mẹ mà cuộc đời của bà gắn bó với những buổi chợ : “Mẹ tôi đội thúng đậy mảnh vỉ buồm / đường hè chân rát đường đông bấm bùn”. Những chi tiết chọn lọc về người mẹ rất thực, rất đời của tác giả-với cái thúng ngất nghểu trên đầu, hai tay tong tả hết phiên chợ này đến phiên chợ khác- làm ta liên tưởng đến những bà mẹ “dòng dõi nhà quê” đảm đang công việc đồng áng và cũng giỏi giang cả việc chợ búa, thúng mẹt để kiếm sống ở hầu khắp làng quê ta. Trúc Thông có “Bờ sông vẫn gió” rất hay viết về mẹ. Đó là một bờ sông có gió, có lá ngô lay, có bến sông trôi, có tiếng nước chảy sông xa, có cây cau cũ, giại hiên nhà…Tất cả trở về trong một hoài niệm thành kính về người mẹ đã mãi mãi ra đi. Dáng hình và hồn vía mẹ đã hòa tan vào thiên nhiên cây cỏ của bờ sông quê. Ở đây, hiển hiện hình ảnh một bà mẹ khỏe khoắn, tất tả, chịu thương chịu khó ở “chợ Sông”. Cái “ chợ Sông” đó còn gắn bó với tuổi thơ tác giả “tôi rắc tuổi thơ loanh quanh phố chợ / chút tình thơ dại bây giờ tôi buôn”. Từ “rắc” rất hay, làm người đọc liên tưởng đến những trò chơi tuổi thơ hồn nhiên, hiếu động cùng bạn bè một thời vô tư trong sáng của tác giả.
Thứ Năm, 22 tháng 4, 2021
Thương bạn
Thứ Tư, 21 tháng 4, 2021
VĨNH BIỆT NHÀ THƠ HOÀNG NHUẬN CẦM!
Các trang FB và báo mạng đưa tin nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm đã đột ngột ra đi vào 15 h ngày 20 tháng Tư năm 2021, hưởng thọ 70 tuổi.
Xin chia buồn cùng gia quyến nhà thơ!
Mong anh hồn nhà thơ viễn du miền Cực Lạc!
Xin đưa lại một bài viết như nén nhang thơm tiễn biệt!
vunhonb.blogspot.com
. Hoàng Nhuận Cầm
Sinh ngày 7 tháng 2 năm 1952.
Quê quán: Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội.
Năm 1971 tình nguyện nhập ngũ vào binh chủng Phòng không – Không quân. Năm 1976 giải ngũ về tiếp tục học đại học.
Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng đến
Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng đến
Chỉ tiếc mùa thu vừa mới đi rồi
Còn sót lại bên bàn bông cúc tím
Bốn cánh tàn, ba cánh sắp sửa rơi.
Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng tới
Như cánh chim trong mắt của chân trời
Ta đã chán lời vu vơ giả dối
Hót lên! Dù đau xót một lần thôi.
Chần chừ mãi cuối cùng em cũng nói
Rằng bồ câu không chết trẻ bao giờ
Anh sợ hãi, bây giờ anh mới nhớ
Em hay là cơn bão tự ngàn xa.
Quả tim anh như căn nhà bé nhỏ
Gió em vào - nếu chán - gió lại ra
Hò hẹn mãi cuối cùng em đứng đó
Dẫu mùa thu, hoa cúc cướp anh rồi. . .
Lời bình của Vũ Nho
HẸN HÒ LÀ ĐÃ CÓ TÌNH Ý VỚI NHAU. GẶP GỠ TRONG HẸN HÒ LÀ ĐỂ KHỞI ĐẦU CHO MỘT QUÁ TRÌNH GẮN BÓ. CUỘC TÌNH NÀO MÀ CHẲNG PHẢI TRẢI QUA BƯỚC HẸN HÒ. ĐIỀU KHÁC THƯỜNG Ở ĐÂY LÀ CUỘC HẸN NÀY CỨ LẦN LỮA KÉO DÀI, CỨ HOÃN ĐI HOÃN LẠI. NÓ KHÔNG GIỐNG VỚI CUỘC HẸN LỠ MỘT LẦN ĐỂ MÙA XUÂN CŨNG CẠN NGÀY NHƯ TRONG MƯA XUÂN CỦA NGUYỄN BÍNH. HÒ HẸN MÃI NGHĨA LÀ CHÍ ÍT CŨNG DĂM BẢY BẬN. ĐẾN NỖI ĐÃ CÓ THỂ QUÊN, VĨNH VIỄN QUÊN NẾU KHÔNG CÓ CÁI LẦN CUỐI CÙNG EM CŨNG ĐẾN. CÁI TỪ CŨNG Ở ĐÂY KHÔNG THỂ THAY THẾ BẰNG TỪ MỚI, HAY ĐÃ CHẲNG HẠN. BỞI VÌ NÓ LÀ SỰ KỊP THỜI ĐẾN SAU CÁI GIỚI HẠN “CUỐI CÙNG” NGHIỆT NGÃ.
Ngọn lửa tình đời bừng sáng giữa bão giông
Ngọn lửa tình đời
bừng sáng giữa bão giông([1])
BÙI NHƯ HẢI
Văn Xương tên thật là Nguyễn Văn Bốn. Anh sinh năm 1959, tại thôn Hiền Lương, xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Văn Xương hiện là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị và là cán bộ Văn phòng Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Trị. Văn Xương là một trong những cây bút truyện ngắn khá thành công trên văn đàn trong những năm gần đây, được bạn đọc trong và ngoài nước chú ý, quan tâm. Văn của Văn Xương rất chân thực, giản dị nhưng lại chất chứa nhiều cảm xúc, giàu tính nhân văn, khiến độc giả luôn thao thức, phải nghĩ suy. Truyện ngắn của Văn Xương được đăng, in trong các tuyển tập truyện ngắn chọn lọc, trên các báo, các tạp chí Trung ương, địa phương và được giải
thưởng văn học. Ra mắt bạn đọc hai tập truyện ngắn Hoa gạo đỏ bên sông (2006) và Hồn trầm (2008), Văn Xương đã trụ được và đứng được giữa làng truyện ngắn Việt Nam đương đại, khẳng định được những giá trị nghệ thuật chân chính, mà anh đã dày công hun đúc, dựng xây. Thế nhưng, Văn Xương không chỉ làm nên chứng chỉ thời gian trong lòng bạn đọc ở thể loại truyện ngắn, mà còn gặt hái được những thành công nhất định ở địa hạt thi ca, được bạn đọc yêu thích, ghi nhận. Có một điều ít ai biết rằng, khởi nghiệp cầm bút của Văn Xương chính là thơ chứ không phải văn. Nhưng trong quá trình sáng tác, Văn Xương đã lấn sân sang thể loại truyện ngắn và đã thành công. Mặc dù, duyên thơ nghiệp truyện (truyện ngắn), nhưng Văn Xương vẫn không chối từ Nàng thơ, vẫn sáng tác đều đặn và đăng rải rác khắp trên các báo, tạp chí Trung ương và địa phương. Chính ngọn lửa tình yêu với thi ca luôn rực cháy, đã thôi thúc Văn Xương ra mắt bạn đọc đứa con tinh thần đầu tiên của mình, đó là tập thơ Búp lửa, do Nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành vào quý I, năm 2011. Một điều hiển nhiên, trong sáng tạo nghệ thuật, thì số lượng tác phẩm không thể định danh được tác giả, mà chỉ có chất lượng tác phẩm mới là tấm thẻ căn cước duy nhất của tác giả đó mà thôi. Và thật may mắn thay, Văn Xương nằm trong những tác giả đạt được cả chất lẫn lượng. Thơ anh không chỉ bạn đọc, đồng nghiệp yêu thích, mà còn được các nhạc sĩ phổ nhạc và các nhà nghiên cứu, phê bình văn học chú ý, quan tâm sâu sắc.
Thứ Ba, 20 tháng 4, 2021
NGÀY ĐỊNH MỆNH
NGÀY ĐỊNH MỆNH Sửa
Thứ Hai, 19 tháng 4, 2021
ĐỌC VÀ HỌC THƠ NGUYỄN KHUYẾN
ĐỌC VÀ HỌC THƠ NGUYỄN KHUYẾN
BÙI MINH TRÍ
Yên Đổ Tam Nguyên rực ánh sao
“Quế sơn thi tập” nức anh hào
Sự đời nghiên bút nhiều vương vấn
Câu chuyện văn chương mãi dạt dào
*
“Thu ẩm” nhà tre màu khói nhạt
Trời xanh “Thu vịnh” mấy tầng cao
“Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào”
*
“Câu cá ao thu” quên thế sự
Xao lòng lại thẹn với ông Đào
Khéo thay “giả điếc” cho đời nhẹ
Một chén trà thơm bật “lẩy Kiều”
*
Cảm hứng cuốc kêu sầu khắc khoải
Nhớ hồn Thục đế tới bao giờ
“Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ”
*
“Bạn đến chơi nhà” là quý hóa
Tuổi cao sức yếu cảnh quê nghèo
“Ao sâu”, “vườn rộng”, trầu không có
Đem tấm lòng mình đãi bạn yêu.
Chủ Nhật, 18 tháng 4, 2021
MÀU XANH NINH CHỮ
ĐINH Y VĂN
MÀU XANH NINH CHỮ
Biển như hòn ngọc biếc xanh
Cong cong bờ cát- long lanh đế vàng
Sóng xanh xanh gió dịu dàng
Khách xa dừng bước mơ màng mắt xanh…
Đ.Y.V