ĐÊM CÔN SƠN
Trần Đăng Khoa
Tiếng chim vách núi nhỏ dần
Rì rầm tiếng suối khi gần, khi xa
Ngoài thềm rơi cái lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng
Mờ mờ ông bụt ngồi nghiêm
Nghĩ gì ông vẫn ngồi yên lưng đền...
... Bỗng đâu vang tiếng sấm rền
Tỉnh ra em thấy trong đền đỏ hương
Ngang trời kêu một tiếng chuông
Rừng xưa nổi gió suối tuôn ào ào
Đồi thông sáng dưới trăng cao
Như hồn Nguyễn Trãi năm nào về thăm
Em nghe có tiếng thơ ngâm...
Ngoài kia nòng pháo ướt đầm sương khuya
Lời bình của Nguyễn Thị Lan
Côn Sơn - mảnh đất địa linh nhân
kiệt. Đây thực sự là nơi vân du, ẩn dật và tu tâm dưỡng tính của các bậc danh
nhân và bao tao nhân mặc khách, những người tiêu biểu cho tâm hồn, khí phách,
văn hoá Việt Nam ở nhiều giai đoạn lịch sử. Trong số họ, Nguyễn Trãi người anh
hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới đã nhiều lần, nhiều năm sống gắn bó,
chan hòa cùng thiên nhiên tạo vật ở nơi đây. Ông đã coi Côn Sơn như "núi
nhà", "quê cũ" và tìm thấy ở chốn này bạn bè tri âm tri kỷ.
Cũng hiếm đâu như ở Côn Sơn lại có
nhiều trí thức, văn nhân, những nhà văn hoá đến thăm, cảm hứng và sáng tạo như
ở Côn Sơn. Đã có bao người làm thơ về Côn Sơn. Và Trần Đăng Khoa, thần đồng thơ
ca xứ Đông là một trong những người làm thơ ấy.
"Đêm Côn Sơn" được Trần
Đăng Khoa viết khi chú bé mới 10 tuổi. Thi phẩm tựa như là một ghi chép bằng
thơ về một đêm ngủ ở Côn Sơn khi tham quan. Bài thơ có hai phần rõ rệt: phần
thứ nhất (6 dòng đầu) và phần thứ hai (8 dòng cuối) được ngăn cách và nối nhau
bởi một giấc ngủ bị ngắt quãng đột ngột do tiếng sấm rền.
Như một bức ký hoạ về chốn lâm
tuyền, "Đêm Côn Sơn" có cả núi rừng, cây cối, chim chóc, suối và cả
ánh trăng. Tuy nhiên "bức tranh" miêu tả cảnh về đêm, tất cả chỉ hiện
hình qua những âm thanh mà chỉ thính giác con người mới cảm nhận được.
Khi màn đêm buông xuống, cảnh vật ở
Côn Sơn như bị che phủ bởi tấm nhung huyền; chỉ còn đâu đây "tiếng chim vách núi nhỏ dần".
Bởi chim đã bay về tổ nên tiếng hót dần thưa thớt, mơ hồ... Dưới kia, tiếng
suối "khi gần, khi xa" như "rì rầm" không dứt. Gần kề là
tiếng lá đa ngoài thềm. Mọi âm thanh đều ở trạng thái giảm nhẹ ("nhỏ dần"), xa dần ("khi gần, khi xa"). Đêm nơi
đây tĩnh lặng đến nỗi nghe thấy cả tiếng lá đa rơi.
Câu thơ:
"Ngoài thềm rơi cái lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng"
như "thần cú" của bài thơ đã
được nhiều người khen không tiếc lời. Nhà thơ Tố Hữu nói: "Giời đã mượn
cái miệng trẻ con của Khoa để làm thơ cho người lớn đọc. Không hiểu sao một chú
bé 8 tuổi (thực ra lúc này Khoa đã 10 tuổi) lại có được câu thơ như vậy. Đó là
câu thơ của Giời." Nhà thơ Xuân Diệu thì lại khen Khoa nghe tinh, có giác
quan tinh tế.
Câu thơ hay vì ở đây có sự chuyển
đổi cảm giác từ thính giác sang thị giác. "Nghe" tiếng lá đa rơi mà
như "nhìn" thấy cả hình dáng chiếc lá ("rất mỏng") và độ rơi của nó ("rơi nghiêng")
Phải chăng đó là khoảnh khắc chiếc
lá lìa cành, buông mình vào hư vô và bắt đầu hành trình của nó. Chiếc lá khẽ
lắc lư một chút, đung đưa một chút, xoay vần nhẹ trên không rồi khẽ khàng chạm
xuống mặt đất. Nhà thơ "nhí" đã ghi lại cái khoảnh khắc dịu dàng ấy
bằng từ "rơi nghiêng".
Lấy "động" để tả
"tĩnh", câu thơ đã tôn lên rất nhiều sự tĩnh lặng, tôn nghiêm của
chốn linh thiêng Côn Sơn.
Nhưng thực ra ở Côn Sơn không có cây
đa. Chiếc "lá đa" ấy là do
Khoa "hư cấu" ra và nó được ghép vào hợp lý đến nỗi không ai thoáng
gợn chút hoài nghi. Khoa đã dùng một cái không có thật ("lá đa") để làm bật lên cái có thật, đó là sự yên tĩnh
của Côn Sơn đêm nay.
Về khuya, âm thanh càng nhỏ dần...
và trước mắt chú bé Khoa chỉ còn hình ảnh "Mờ
mờ ông bụt ngồi nghiêm" và "Nghĩ
gì, ông vẫn ngồi yên lưng đền..." Trong cuốn "Chân dung và đối
thoại", Trần Đăng Khoa kể lúc đầu Khoa viết là "Sợ gì" (trẻ con
vốn hay sợ, Khoa mới lên 10 tuổi, đêm tối sợ ma đã đành nhưng bụt cũng sợ). Nhà
thơ Xuân Diệu đã chữa cho cậu học trò của mình chữ "sợ" bằng chữ "nghĩ". Thế là ông bụt đã hoá
thành cơ thể sống, đã thành sự sống. Xuân Diệu chỉ đổi một chữ mà thay đổi cả
thần thái bài thơ.
Phần hai của bài thơ bắt đầu bằng
tiếng "sấm rền":
"Bỗng đâu vang tiếng sấm rền"
Tiếng sấm rền ngoài trời hay tiếng
sấm rền trong mơ? Và chú bé bừng tỉnh. Cảnh tượng huy hoàng, rực rỡ, sôi động
khác hẳn phần đầu. Mọi âm thanh và ánh sáng đều ở cường độ mạnh. Đền thì "đỏ hương", chuông thì kêu "ngang trời", rừng thì "nổi gió", suối thì "tuôn ào ào", đồi thông thì "sáng" bừng lên dưới trăng
cao. Cảnh càng kỳ ảo và mang tầm vóc vũ trụ hơn khi Khoa như nhìn thấy hồn
thiêng Nguyễn Trãi "về thăm".
Nguyễn Trãi vẫn nhớ về "quê cũ" (chẳng phải trong "Quốc âm thi
tập" ông đã viết về Côn Sơn: "Náu về quê cũ bấy nhiêu xuân/ Lẳng
thẳng chưa lìa chốn trần" đó sao?). Cảnh như thực như mơ. Sự chuyển vần
của đất trời nơi núi rừng Côn Sơn hay giấc mơ thần diệu của nhà thơ khi đặt chân
tới chốn linh thiêng này? Có lẽ cả hai. Ở đoạn thơ này Trần Đăng Khoa đã phóng
bút với những câu thơ thật hào mại, lãng mạn, bay bổng.
Như một lẽ tự nhiên, nói đến Nguyễn
Trãi là phải nói đến thơ. Và thật hồn nhiên Khoa đã nghe thấy tiếng "thơ ngâm" huyền bí:
"Em nghe có tiếng thơ ngâm"
Tiếng sấm rền có thể nghe trong mơ,
vậy thì tiếng thơ ngâm có thật hay nghe bằng tâm tưởng, nghe trong ảo giác?
Nguyễn Trãi hiện về đọc thơ chăng? Người đọc "Cáo bình Ngô" hay
"Côn Sơn ca". Tiếng thơ của Người vẫn vang vọng giữa đất trời, non
nước này; Tấm lòng của Người vẫn sáng như sao Khuê. Nếu vậy thì "Đêm Côn
Sơn" là bài thơ chiêu tuyết cho Nguyễn Trãi - vị lão thần đầu bạc đã chết
dưới lưỡi đao oan nghiệt của triều đình phong kiến. Đọc câu thơ này của Trần
Đăng Khoa, tôi miên man cảm thức như vậy...
... Nhưng tiếng thơ ngâm ấy (có
người nói) cũng có thể là của một chú bộ đội. Bởi vì:
"Ngoài kia nòng pháo ướt đầm sương
khuya"
Các chú bộ đội pháo cao xạ vẫn thức
canh cho giấc ngủ của Côn Sơn yên tĩnh.
Côn Sơn,
nơi lữu giữ những trầm tích lịch sử và văn hoá của dân tộc, là mảnh đất thiêng
không chỉ với người dân xứ Đông mà còn với muôn triệu người dân đất Việt. Đêm
nay, hồn thiêng của thánh thần ("bụt"),
của người anh hùng dân tộc ("Nguyễn
Trãi") cùng với núi rừng nơi đây, với người lính thời đại Hồ Chí Minh
vẫn thức, giữ cho Côn Sơn mãi mãi bình yên. Điều đó càng có ý nghĩa hơn trong
một đêm chiến tranh của năm 1968, khi giặc Mỹ bắt đầu leo thang bắn phá miền
Bắc.
Bài thơ của Trần Đăng Khoa không chỉ
đem đến cho người đọc một "bức hoạ" đêm Côn Sơn đơn thuần mà còn là
những nghĩ suy không kém phần sâu xa về đất nước.
Hải
Dương đầu thu năm 2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét