THƠ MỴ DUY THỌ
ẾCH NHÁI CHƠI MƯA
Uôm uôm, lũ ếch nhái
Mưa xuống là gọi nhau
Nhảy đi chơi tắm mát
Ao chuôm, cánh đồng sâu
Bọn nhắm mắt lặn bơi
Bọn nhảy xa tìm đôi
Ễnh ương ngồi lá súng
Hô hoán vang cả trời
LỜI THỀ CỎ MAY
PHẠM CÔNG TRỨ
Làm sao quên được tuổi thơ
Tuổi vàng, tuổi ngọc - tôi ngờ lời ai
Thuở ấy tôi mới lên mười
Còn em lên bảy, theo tôi cả ngày
Quần em dệt kín cỏ may
Áo tôi đứt cúc, mực dây tím bầm
Tuổi thơ chân đất đầu trần
Từ trong lấm láp em thầm lớn lên
Thế rồi xinh đẹp là em
Em ra tỉnh học em quên một người
Cái hôm nghỉ Tết vừa rồi
Em tôi áo chẽn, em tôi quần bò
Gặp tôi, em hỏi hững hờ
“Anh chưa lấy vợ, còn chờ đợi ai?”
Em đi để lại chuỗi cười
Trong tôi vỡ một khoảng trời pha lê
Trăng vàng đêm ấy, bờ đê
Có người ngồi gỡ lời thề cỏ may...
Nguồn: Báo Tiền phong, số ngày 19/4/1988.
Lời bình của Nguyễn Thị Thiện:
“CÓ NGƯỜI NGỒI GỠ LỜI THỀ CỎ MAY”
“Lời thề cỏ may’’ là bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách sáng tác của nhà thơ Phạm Công Trứ (1953 - Hái Hậu Nam Định). Thi phẩm được rất nhiều bạn đọc yêu thích bởi đã tái hiện những kỷ niệm đẹp của tuổi trẻ, làm sống dậy rung cảm trong trẻo, hồn nhiên thuở ban đầu và thực tế đau xót trước những khác biệt lớn giữa văn hóa nông thôn với nếp sống thị thành.
MỘT THỜI XẺ DỌC TRƯỜNG SƠN
Bút kí của BÙI QUANG THANH
Nhà thơ Bùi Quang Thanh
Đường Hồ Chí Minh, con đường cách mạng, con
đường giải phóng vĩ đại nhất trong lịch sử kháng
chiến chống ngoại xâm của dân tộc ta đã đi vào huyền
thoại, từ không đến có, từ bí mật đến công khai, từ ngắn
đến dài, từ đường mòn thành đại lộ. Đường Trường Sơn
trong tâm khảm chúng ta là sự hy sinh, cống hiến của bộ
đội, thanh niên xung phong, công nhân quốc phòng, của
nhân dân các địa phương nơi có con đường đi qua. Và còn
một lực lượng đáng kể, dù ít được nói đến nhưng không
thể nào quên khi nhắc tới sự tồn tại của con đường huyết
mạch này: những chiến sĩ dân công hỏa tuyến - những
người nông dân thực thụ làm nhiệm vụ trọng yếu như
những lực lượng chính quy - trong đó có đơn vị chúng tôi
- đơn vị có biệt danh “Công trường 10”.
GỌI HÈ
Vanvn– Trần Nguyệt Ánh giữ trong mình hồn cốt của dãy núi Chư Yang Sin xanh thẳm mà đầy phóng khoáng, tẩm trong lòng tay từng lớp nắng, lớp gió từ vùng đất đỏ màu mỡ chất chứa nỗi lòng tha hương của những con người tứ phương.
“Thơ giải tỏa ẩn ức sống, kinh nghiệm sống. Thơ chia sẻ và cứu rỗi cô đơn hay tuyệt vọng của con người”. Trong quá trình đọc tập thơ “Từ đuôi mắt Chư Yang” của nhà thơ nữ Trần Nguyệt Ánh làm tôi nhớ đến quan niệm trên của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo. Với góc độ là một người đọc, công việc cảm nhận tác phẩm có lẽ là một thách thức, tôi tìm đích đến của mỗi bài thơ, nhưng cái đích ấy không phải là điểm xác lập vị thế của một người thơ mà là hành trình tác giả nhóm đuốc, rọi soi qua từng nốt lặng trong hổn hển hơi thở của mình.
GS.TSKH. MAI THANH TÂN
Thế kỷ 20 đã chứng kiến những tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ, đồng thời cũng phát triển xu hướng khai thác những giá trị cốt lõi, bản chất bên trong của mỗi con người, hướng đến sống có ý thức hơn trong suy nghĩ, tình cảm và hành động mà không bị ràng buộc bởi các nguyên tắc, định kiến xã hội.
Cuộc sống luôn biến đổi và có nhiều thứ nằm ngoài tầm kiểm soát tạo nên sự lo lắng bất an. Thiền là một trong những biện pháp giúp thay đổi trạng thái tâm trí để trở nên tốt hơn. Thiền là tĩnh tâm, là sự tập trung tâm trí cao độ nhằm đạt được giác ngộ về bản chất thật của sự tồn tại một cách đúng đắn và sáng suốt. Thiền tạo ra cảm giác bình tĩnh và hài hòa về mặt nội tâm cho con người. Trong Phật giáo, thiền là những pháp thực hành nhằm luyện tâm. Trong yoga, thiền là trạng thái tinh khiết và tập trung cao độ khi tâm trí xuôi chảy không gì ngăn trở, đắm mình trong ý nghĩ về ý thức vũ trụ. Osho, một trong những nhà huyền môn nổi tiếng người Ấn Độ có viết cuốn “Thiền” rất thú vị.
Dù được diễn đạt rất khác nhau nhưng về bản chất, các định nghĩa về thiền đều cho thấy đây là phương pháp rèn luyện khả năng tập trung của con người, từ đó giúp con người trở nên bình tĩnh và lắng dịu để cảm nhận được sự bình an sâu thẳm.
Cuối năm 1980, đang dạy học phổ thông ở quê nhà, tôi được lệnh nhập ngũ, vào huấn luyện tân binh ở Trung đoàn 853 thuộc sư đoàn 342 của Quân khu 4, đóng cạnh sân bay Ái Tử. Đây là lần đầu tiên tôi đến Quảng Trị, “miền đất lửa” hiểu theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng mà chúng tôi đã được đọc, được nghe, được “nhìn” thấy qua sách báo, phim ảnh...
Hồi đó, ngoài huấn luyện và học tập, thỉnh thoảng chúng tôi còn phải đi lao động dã ngoại; ngược sông Thạch Hãn lên tận vùng Vực Mệ, Pu Cô... để chặt gỗ, bứt tranh về xây dựng doanh trại và làm chất đốt. Khúc sông ở khu vực này gọi là Ba Lòng. Với kiến thức của một giáo viên văn-sử, tôi được biết Ba Lòng là thượng nguồn của sông Thạch Hãn đổ về Cửa Việt. Đây là con sông lớn nhất của tỉnh Quảng Trị, chiều dài khoảng 160 km với rất nhiều phụ lưu uốn lượn qua nhiều miền quê, tạo nên một hệ thống giao thông đường thủy rất đắc dụng của cư dân địa phương...
Tuổi thơ trong mùa nắng hạn
Trăng mười bốn, buông lơi bãi vắng
Ngày hè trôi trong tiếng ve ngân
Mùa nắng hạn, thời gian ngưng lặng
Nắng vàng đâu? cỏ úa đầy sân
*
Tuổi thơ giờ không như xưa nữa
Cũng khẳng khiu trong gió trên đồng
Cánh đồng khát, nỗi niềm chan chứa
Trắng một màu, bạc thếch, mênh mông
*
Cánh diều đứt, treo ngang nỗi nhớ
Bập bùng bay, lả tả bến sông
Trống hoang hoác, phất phơ dây nhợ
Dòng sông khô, bức bối oi nồng
Khắc khoải Dương Kiều Minh
CAO NGỌC THẮNG
Ngay những bài trong tập Củi lửa, tập thơ xuất bản đầu tiên (Nxb Tác phẩm mới, 1989), Dương Kiều Minh đã biểu lộ thiên hướng bộc bạch nỗi trằn trọc rất riêng tư những cảm hoài bằng ngôn ngữ thơ hiện đại:
“Khắc khoải trầm dài miền quê xa tít
Ai đợi con bên ô giậu thưa
Chùm mồng tơi tim tím”
(Hy vọng)
Thiên hướng này Dương Kiều Minh chung thủy cho đến cuối chặng đường thơ của mình, tạo nên giọng thơ không lẫn trong môi trường thơ đương đại, mang dấu ấn của người thơ dấn thân vì cái đẹp, vừa thuần khiết vừa sang trọng của thơ.
ĐÓA EM
Xa anh. Em có nhớ không?
Anh về. Anh nhớ một bông sen vàng
Bên đầm. Im lặng ngân vang
Bỗng dưng trận gió đi ngang nỗi niềm
Anh về. Nhớ một đóa em...
Trần Trọng Giá
BẠCH LIÊN