Tác giả bài viết: ĐỖ NGỌC GIAO
8. Xã Định đi kiện dưới âm phủ
(Le procès du Xã Định aux enfers)
Ở tỉnh Bình Thuận có ông xã trưởng tên Định. Bữa nọ ổng nhận lịnh về
gặp cấp trên gấp. Dọc đường lộ có cái miếu thờ bà kia linh lắm [a]. Ai
đi ngang, làm quan gì không biết, đi kiệu hoặc cỡi ngựa, cũng phải dừng
lại, bước xuống bỏ dù ra chào, không thôi bả vật chết. Xã Định cỡi ngựa
lên đường. Gần tới chỗ đó, ổng khấn: ‘Tui
có lịnh về gấp, sợ trễ, phải đi ngựa, trời tối thui rồi, đàng kia còn
con cọp, xin bà làm ơn cho tui qua luôn, xong việc về nhà tui cúng tạ ơn.’
Miệng khấn, chưn đạp ngựa vọt tới. Qua miếu, ổng hộc máu liền, nhưng
vẫn ráng chạy đi. Xong công chuyện, về ngang miếu, ổng khấn bà kia cho
ổng khỏe lại, ổng cúng một con heo. Nhưng rồi thấy không khỏe mà còn yếu
hơn, ổng nổi hung, nói: ‘Cái bà vô đạo! Bà có giỏi giết tui đi, xuống âm phủ tui kiện cho bà coi.’ Tới khi hết ăn uống nổi, biết sắp chết, ổng kêu vợ con dặn: ‘Chừng
tui chết rồi, nhớ cúng cho tui một trăm tờ giấy bự, mười cây viết với
năm cục mực tàu [b]. Xuống tới dưới tui viết đơn kiện con mụ này, để coi
ai hơn ai.’
Ta không rõ xã Định làm gì ở dưới để kiện, nhưng ba tháng sau khi
ổng chết, bà kia nhập đồng nói làng dỡ miếu đi, chớ đừng thờ bả nữa. Họ
hỏi sao vậy, bả nói: ‘Thằng
cha xã Định chết đâm đơn kiện tui, làm tui không được phép coi làng này
nữa. Nên tui mới nói làng đừng cúng gì cho tui hết, có cúng thì cô hồn
ăn mà thôi; tui giờ phải theo kiện chớ không rảnh.’
Vậy chớ dân làng chưa dám dỡ miếu, mà mấy tháng sau đó tới lễ kỳ yên
[c], họ cúng cho bả một con heo như trước. Xã Định liền nhập đồng nói
dân làng: ‘Tui
đã kiện con mụ này rồi; mụ không có quyền ở miếu này nữa. Làng đừng
cúng gì cho mụ nghen. Không tin, làng gọi Ông Địa lên, rồi ổng nói cho
nghe.’ Họ kiếm đồng gọi Ông Địa [d]. Ông này nhập đồng, biểu xã
Định nói trúng. Làng bèn dỡ miếu, từ đó người đi ngang không phải bước
xuống bỏ dù ra chào nữa.
___________
a. Người An Nam thờ thần của ‘ngũ hành’ gọi bằng ‘bà’; mà hay thờ
nhứt là ‘bà thủy’ và ‘bà hỏa’. Thường thì người ta lập miếu thờ chung
mấy bà đó, gọi là ‘ngũ hành nương nương’ hoặc ‘ngũ hành chi vị’. Quan
thì cúng mỗi năm một lần, còn dân muốn cầu cúng lúc nào cũng được. Tất
nhiên còn nhiều bà nữa. Thí dụ bà Cố Hỷ ở Bình Thuận. Bà này ở trong một
cái động bên đường lộ từ Bà Rịa ngang Bình Thuận ra Huế. Người đi đường
phải tôn kính bả như chuyện đã kể. Ai mặc đồ tốt mà đi ngang không chào
bả, hoặc vô làng nói hỗn với bả, là bị phạt liền.
b. Đồ cúng cho người chết thường là đốt, hoặc bỏ chung vô hòm; ở đây hẳn là bỏ vô hòm.
c. Lễ cầu cho quốc thới dân an, mỗi năm một lần, bắt đầu từ buổi chiều ngày thứ nhứt tới hết ngày thứ ba.
d. Ông Địa biết rành chuyện gì xảy ra ở vùng đất của ổng trấn nhậm.
1.3. Người chết tái sanh
9. Chuyện hai ông trạng
(Histoire de deux laureats)
Đời vua Hồng Đức, trào Lê, ở trạm Thần Đầu, huyện Kỳ Anh, tỉnh Nghệ
An, có hai anh em nhà họ Nguyễn. Nhà nghèo, cha mẹ vô rừng chặt củi bán
mỗi ngày chưa được ba tiền cho con đi học. Bởi vậy, bị làng rẻ rúng, hở
ra là bắt phạt.
Hai anh em lớn lên, đi thi cùng khóa, cùng đậu trạng nguyên. Nhà vua
hài lòng, cho vinh quy về làng. Có kỵ binh và tượng binh hộ tống, dọc
đường người ra đón theo đưa. Tới làng, hết thảy những kẻ lúc trước coi
khinh nhà họ nay đều túa ra rước; quan phủ/huyện về làm lễ đón linh
đình; tiệc tùng rần rần ba bốn ngày.
Đâu đó xong xuôi, bà mẹ hai ông nghè ngồi một mình thơ thẩn nói:
‘Xưa
nhà ta nghèo, chẳng ai dòm tới; cả ngày vô rừng chặt củi bán mới có cái
ăn, không thì chết đói, đêm bị bắt ra điếm canh, không thì chết đòn;
khổ nhục biết chừng nào. Nay con ta thi đậu, họ kéo tới lạy. Người đời
thiệt là đáng giận. Đã vậy, ta phải bảo con, ai không hại ta thì ta bỏ
qua, ai đã hại ta thì ta hại lại. Cho chúng chết, mới hả.’
Ta nên biết rằng hai ông nghè này là hai vị thần được Trời cho đầu
thai vô nhà này, vì họ có đức. Song le, ngay khi bà mẹ thốt ra mấy lời
đó, cái đức của họ đã bị xóa sạch. Một vị ‘du thần’ lướt qua nghe bà mẹ
nói vậy thì về báo lại Trời. Trời cho gọi hai vị kia về. Hai ông nghè
chết. Trước khi họ chết, du thần báo mộng cho bà mẹ biết vì sao mà như
vậy. Sau người ta xây đền thờ hai ông nghè ở trạm Thần Đầu, và họ thành
thần.
10. Chuyện chú Nghị
(Histoire de Nghị)
Ở chợ Cày, làng Trường Lưu, tỉnh Hà Tịnh [a], có tên Nghị gác chợ.
Sau khi chết, hắn thành tinh, dân làng dựng miếu thờ, mỗi năm cúng hai
lần. Quên cúng là khó yên với hắn. Miếu kế bên đường, chị nào đi ngang
cũng phải kéo quần xuống, không thôi hắn chẳng cho qua. Ai ra chợ bán
hàng cũng vậy, không thôi khó bán. Đinh Nhựt Thận [b] ra xứ Bắc làm
quan, đi ngang đó nghe dân làng kể chuyện. Ổng biểu con tinh: ‘Ta đang
ra Bắc, nếu mi giúp, ta sẽ phong cho mi chức Đại tướng quân, chú Nghị, coi chợ.’
Được chức [c], chú Nghị càng ngày càng lung: hiện vô nhà người ta,
cưỡng dâm đàn bà. Khi vua Thiệu Trị [d] ra Hà Nội nhận sắc phong, có đi
ngang miếu, hỏi thờ ai đó. Dân làng thưa chuyện chú Nghị phá phách, nhà
vua truyền lịnh đốt miếu ra tro. Từ đó, làng mới yên.
___________
a. Tức là Hà Tĩnh.
b. Đinh Nhựt Thận (1815–1866), danh sỹ Nghệ An.
c. Người kể chuyện [cho Landes] không nói chú Nghị đã giúp việc gì.
d. 1840–1847.
11. Chuyện Lý Khắc Cần
(Histoire de Lý Khắc Cần)
Cuối hai tỉnh Hà Tĩnh và Nghệ An là một rặng núi kêu bằng Đại Ngàn,
tới đó phải qua hai cái đàng dốc kêu bằng Truông Mây và Truông Bát [a].
Phía sau núi là xứ ‘vạn tượng’ [b], phía trước núi còn hoang vu. Tiều
phu vô núi đốn cây, đi từng nhóm chừng năm chục người, tới cửa rừng thì
cúng.
Hồi trào Lê, có ông quan tên Lý Khắc Cần dắt lính vô đó đốn cây. Bữa
nọ khi lính đang làm, ổng mắc võng dưới cây nằm; một anh nói: ‘Ở đây có cọp à quan.’ Ổng nói: ‘Ta nằm đâu thì nằm, bây lo làm đi.’ [c]
Lính vừa đi, một con cọp ló ra nhảy tới chụp ổng; giằng co một hồi, ổng
bị nó giết chết tươi, banh xác nhưng chẳng ăn thứ gì. Nó nằm mọp trên
xác, chờ lính quay lại. Lính trong rừng trở ra, thấy chủ chết, lượm xác,
cử hai anh về báo quan tỉnh. Họ tới điều tra, hiểu ra duyên cớ, cho
khiêng xác về chôn. Nhưng cọp và voi trong rừng rần rần túa ra, tới chỗ
đám người, cọp thì vây quanh, voi thì chặn đường. Họ phải báo tin xin
thêm quân lính tới đuổi bầy thú mới đem được xác Lý Khắc Cần về, chôn
gần tỉnh lỵ.
Ba đêm sau, cọp trong rừng kéo về, đào hòm lên, tha tới truông, chôn
ở đó. Người nhà ra thăm mộ, thấy trống trơn, hỏi hàng xóm mới biết. Họ
kéo tới truông, tìm thấy hòm. Bèn báo quan tỉnh, quan ra lịnh để yên đó,
cảm thấy rằng cọp chôn người là điềm may cho nhà họ.
Từ đó, Lý Khắc Cần hiển linh, dòng giõi của ổng làm tới chức quan
cao nhứt trong trào, còn ai vô rừng đốn cây thì cúng ổng để cầu an. Họ
cất một cái miếu kế truông, đầu năm tới đó làm lễ. Lý Khắc Cần có hiệu
là Thần Giữ Rừng, nhưng dân gian gọi là Ông Già Nằm Võng.
___________
a. Truông Mây cao như mây, Truông Bát có lúa hoang tới tháng tám thì chín (‘tám’ là ‘bát’ trong tiếng Tàu).
b. xứ Lào.
c. Nguyên văn: ‘Ta mắc tội nơi nào thì bị phạt nơi đó, và ta cho cọp [ăn] thứ gì thì nó [ăn] thứ đó mà thôi.
12. Chuyện Ngô Bát Ngạo
(Histoire de Ngô Bát Ngạo)
Ngô Bát Ngạo ở huyện Bình Chánh [a], tỉnh Quảng Bình, là người gốc
Tàu. Khi còn sống, hắn coi huyện đó. Hắn từng chống lại vua Lê [b]. Sau
khi hắn chết, dân cả huyện vẫn khổ vì hắn. Muốn cất nhà, họ phải nhờ bà
đồng xin phép; hắn sẽ bắt họ trả tiền mướn đất hàng năm và đo đất cho
họ. Nếu họ muốn mua, hắn cũng bán. Họ phải mổ heo mua rượu mời hắn về
hưởng, rồi hắn ký giấy nhượng đất. Có vậy người ta mới yên; nhà nào làm
lơ, hắn cho họ mắc bịnh và heo bò chết hết. Thỉnh thoảng hắn hiện vô nhà
một người giàu, nói hắn mới thua bài, bắt họ phải mua miếng đất này nọ
của hắn và kiếm tiền trả hắn [c]. Ai không chịu, hắn trước làm chết trâu
bò, sau khiến người nhà ốm o. Dân huyện mỗi năm cúng cho hắn hai lần,
mỗi lần hai ba con heo.
Ngày nọ quan tổng đốc Giai ở Hà Nội [d], cũng là người huyện Bình
Chánh, về quê thăm nhà. Dân tới gặp, than nỗi khổ bị Ngô Bát Ngạo bắt
phải mướn hoặc mua chỗ đất mà họ đang trồng cấy. Quan cho kiếm một bà
đồng nhờ kêu Ngạo về đối chất. Quan hỏi vì sao hắn hành dân như vậy.
Ngạo đáp:
‘Khi
vua Lê Thái Tổ dựng nước, chính tôi đã khai khẩn đất huyện này và lập
làng. Tôi sống, nhà vua cho coi vùng này; tôi chết, nó vẫn là của tôi;
bởi vậy tôi cóquyền bán hoặc cho mướn đất.’
Quan nói:
‘Ta
chấp nhận mỗi năm dân huyện cúng cho mi một con heo và đồ vàng bạc,
nhưng mi không được hành dân và giết heo bò của dân. Nếu chịu, thì mi ký
tên thỏa thuận với các làng.’
Ngạo chịu. Từ đó, ngày đầu năm, dân huyện này làm lễ cúng gọi là Lễ Mướn Đất.
___________
a. Nay là Quảng Trạch.
b. Người kể chuyện [cho Landes] không nói rõ vua nào, nhưng câu
chuyện sau đó cho thấy vai chánh ở cùng thời với vua Lê Thái Tổ [lên
ngôi năm 1428]. Hắn sống tới đời vua thứ ba là Lê Nhân Tông (1442–1459),
chống lại vua này và có lẽ vì vậy mà chết.
c. Không phải tiền thật mà là hàng mã dùng để đốt cúng. Người dân
khổ không phải vì chuyện này, mà vì hao tiền mua đồ cúng và trả công bà
đồng.
d. Dường như là Nguyễn Đăng Giai (?–1854); hình của nhơn vật này có
treo trong một ngôi đền ở Hà Nội do ổng dựng nên, theo Trương Vĩnh Ký
cho biết trong Chuyến đi Bắc Kỳ.
13. Chuyện cô công chúa trào Lê
(Histoire d’une princesse de la dynastie Le)
Vua Thánh Tông [a] trào Lê [b], hiệu là Hồng Đức, có con gái tên Mai
Châu. Năm cổ lên mười ba, người Mọi ở Ngũ Quảng [c] nổi dậy, và Ngô Bát
Ngạo [d], tự xưng là dòng giõi nhà Minh bên Tàu [e], cũng hùa theo.
Trong trào không tướng nào dẹp nổi bọn hắn. Công chúa xin cha đem quân
đi đánh. Nhà vua cho mười chiến hạm với năm vạn quân. Hạm đội thả neo
gần cù lao An, ven biển Quảng Bình. Tới nửa đêm, bão lên dữ dội, người
ta cho rằng đó là một ông thần nước [f] muốn lấy công chúa nên tính làm
đắm hạm đội. Công chúa nghĩ rằng nếu cổ không nhảy xuống biển thì đoàn
quân tan tành, nên đành chịu vậy và ra lịnh cho quân trở về báo vua cha
biết.
Nhà vua nổi giận, tới đó lấy gương phép [g] rọi xuống đáy biển,
nhận ra chỗ có dinh thần nước, ra lịnh bắn cà-nông xuống. Sau ba ngày ba
đêm, dinh tanh bành, thần kia trả xác công chúa trên mặt một cái phá
kêu bằng Ao Bạch.
Từ đó, công chúa hiển linh, làm vài việc lạ. Dưới trào Minh Mạng [h]
có Ba Vành nổi dậy [i], không tướng nào dẹp nổi. Công chúa báo mộng cho
nhà vua rằng ngày 18 tháng 3 lúc canh hai, hễ thấy ngọn lửa màu xanh
trên trại giặc thì đốc quân vô đánh. Nhà vua làm theo, đánh tan giặc.
Ngài phong cho công chúa làm thượng đẳng thần với mỹ tự ‘quyền năng,
đáng kính’.
___________
a. 1460 – 1498.
b. Hậu Lê, 1428–1789, vua đời chót là Lê Chiêu Thống sang tỵ nạn bên Tàu.
c. Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức (Thừa Thiên), Quảng Nam, Quảng Ngãi.
d. Coi lại chuyện Ngô Bát Ngạo bên trên.
e. Đời vua Thánh Tông cùng thời với đời vua thứ 10 nhà Minh bên Tàu là Hiến Tông (1465 – 1488).