THỬ BÌNH ĐOẠN “ KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH”
VƯƠNG TRỌNG
Ngưng Bích là tên lầu, ngụ ý màu xanh ngưng lại tạo nên màu của lầu, ngôi lầu màu xanh, cái màu đặc trưng của các khu nhà chủ chứa ở Trung Quốc ngày xưa bắt các cô gái hành nghề mại dâm. Có lẽ lúc này Thúy Kiều chưa cảm nhận được cái màu xanh kinh sợ đó, nhưng chẳng bao lâu nữa nàng sẽ nhận ra khu nhà này biến đổi nàng “Xưa sao phong gấm rủ là / Giờ sao tan tác như hoa giữa đường / Mặt sao dày gió dạn sương / Thân sao bướm chán ong chướng bấy thân…”. Nhưng đó là trong tương lai gần, còn giờ đây, nàng chỉ coi lầu xanh là ngôi nhà giam cầm, khóa tuổi xuân mình, không đi đâu được. Nàng ngồi lặng một mình, phóng tầm mắt ra xa, gặp vầng trăng chân trời thu gần lại, dãy núi được đẩy ra xa để cả hai cùng nằm trên một bình diện như một bức tranh. Đây không phải là lần duy nhất nàng ngồi buồn ngắm cảnh ở lầu Ngưng Bích, mà dường như Tú Bà đã đưa nàng về ở đây trong nhiều ngày, làm nàng buồn chán, ngày cũng như đêm, “bẽ bàng mây sớm đèn khuya” trong cảnh buồn tủi, cô đơn. Cảnh gợi tình, nàng ngồi nhớ người thân, bắt đầu là người tình mà hoàn cảnh đã buộc nàng phụ lời hẹn ước. Trên bước đường lưu lạc, đây là lần thứ hai nàng nhớ chàng, lần thứ nhất khi ngồi trên xe ngựa theo Mã Giám Sinh trên đường từ Bắc Kinh về Lâm Tri, “Dặm khuya ngất tạnh mù khơi / Thấy trăng mà thẹn những lời non sông”, nhưng lần ấy nỗi nhớ chưa thật cụ thể như lần này:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
“Dưới nguyệt chén đồng” là nàng nhớ lại chén rượu đính hôn cùng uống với chàng Kim trong cái đêm “Vầng trăng vằng vặc giữa trời” và cùng thề bồi “ Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”. Sau lần hẹn ước đó, chàng Kim phải về Liêu Dương hộ tang chú, nàng ở lại, “một ngày nặng gánh tương tư một ngày”, nàng nhớ chàng, mong đợi tin chàng ngày này qua ngày khác, “tin sương luống những rày trông mai chờ” là nàng nhắc lại tâm trạng của mình trong những ngày ấy. Ngày ấy hai người tuy xa nhau, nàng đợi tin chàng và hy vọng gặp lại, còn bây giờ, chàng vẫn ở chân trời, nàng trơ vơ một mình nơi góc biển, mọi hy vọng trùng phùng đã dẹp tắt, chỉ có tấm lòng son nàng nhớ chàng là vẫn vẹn nguyên. Câu thơ “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai” có nhiều người hiểu khác nhau. Nhà thơ Trinh Đường chê hai chữ “gột rửa”, với lập luận rằng hai từ này chỉ dùng để chỉ việc loại trừ những vết bẩn, sao lại sử dụng để gạt bỏ nỗi thương nhớ in đậm vào tấm lòng son? Giáo sư Trương Tửu trong một lần trò chuyện với tác giả bài viết này đã trình bày một cách hiểu hoàn toàn khác, theo ông, là Thúy Kiều nghĩ không biết bao giờ mới gột rửa hết vết bẩn mà Mã Giám Sinh đã gây ra cho tấm lòng son của mình…Tôi không quá cứng nhắc như nhà thơ Trinh Đường và cũng không suy luận như giáo sư Trương Tửu và hiểu câu này ý nói rằng tấm lòng son sắt thương nhớ của Thúy Kiều đối với chàng Kim vẫn đậm đà và không có cách gì làm phai nhạt được. Động từ “gột rửa” chẳng qua chỉ các biện pháp thực hiện một cách mạnh tay, vẫn không hiểu quả mà thôi.
Sau khi nhớ chàng Kim, Thúy Kiều nhớ cha mẹ. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du năm lần mô tả nỗi nhớ của Thúy Kiều, thì cả năm lầm đều có nhớ về cha mẹ, dù thời gian và hoàn cảnh đổi thay. Cả bốn câu tả nỗi nhớ cha mẹ của Thúy Kiều lần này đều dùng thủ pháp ước lệ và điển tích, như “tựa cửa”, “quạt nồng, ấp lạnh”, “Sân Lai”, “gốc tử” rất quen thuộc với văn học cổ điển để nói nỗi lo nghĩ của nàng về cha mẹ già yếu nơi quê nhà xa xôi không biết nhờ ai chăm nom, săn sóc, vẫn tháng ngày tựa cửa ngóng con…
Hết tả tình, sang tả cảnh từ xa đến gần. Bốn cặp lục bát tả cảnh đều mở đầu bằng “Buồn trông”, chỉ tâm trạng người ngắm cảnh. “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” là “tuyên ngôn” của tác giả Truyện Kiều, nên cảnh “cửa bể chiều hôm” hiện lên từ “thấp thoáng cánh buồm xa xa” đến “ngọn nước mới sa” phải đâu là cảnh đẹp? Hình tượng “hoa trôi man mác biết là về đâu” trong “ngọn nước mới sa” ấy dự báo thân phận trôi giạt của Thúy Kiều, chắc là khi nhìn những cánh hoa này, nàng cũng vận vào mình “đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh” như khi biết được thân phận Đạm Tiên. Hết nhìn biển, nhìn lên bờ gặp “ngọn cỏ rầu rầu”, làm nên một màu gợi buồn mặt đất, chân mây. Nhưng trong cảnh hoàng hôn, một mình ngắm cảnh cửa biển, Thúy Kiều không chỉ thấy buồn, mà có nỗi hãi hùng:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Trên mặt duềnh gió mạnh, có thể “cuốn” đi tất cả, và “quanh ghế ngồi”, tiếng sóng “ầm ầm” là nàng có cảm giác mình quá bé nhỏ, mềm yếu trước thực tại, như dự báo trước cuộc đời mình sẽ bị xô đẩy, chẳng có cách nào cưỡng nổi…
Chỉ qua đoạn trích này thôi, chúng ta cũng thấy được sự sáng tạo to lớn của Nguyễn Du khi sử dụng KVKT để sáng tác TK. Trong KVKT, đoạn này chỉ như sau: “ Ngôi lầu này, phía đông trông ra biển xanh, phía bắc nhìn lên kinh kỳ, phía nam ngó lại Chi Lăng, phía tây trông qua dãy núi Kỳ Sơn. Thúy Kiều đối cảnh buồn tênh, nhớ lại cái ngày cùng chàng Kim trao lời thề thốt, thân thiết biết chừng nào, mà nay vắng bặt tăm hơi, thê lương biết là dường nào, nhân cất bút viết ra mười bài “ Chẳng cùng nhau” để ghi lại tâm tình thương nhớ”. Như vậy, không những hơn chục câu lục bát tả cảnh trước lầu Ngưng Bích là hoàn toàn do Nguyễn Du nghĩ ra, mà ngay chuyện Thúy Kiều nhớ cha mẹ cũng là ý của tác giả Truyện Kiều. Chính nhờ Nguyễn Du mà Thúy Kiều trong TK đáng yêu hơn trong KVKT đâu chỉ ở lời đối đáp mà ngay trong cư xử và ý nghĩ của nàng.
Khi bình đoạn thơ này, nhà Xuân Diệu lưu ý rằng, nói là “nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”, ai cũng biết là tác giả sẽ tả tình, tả cảnh… nhưng không ngờ được, tác giả tách bạch tám câu tả tình trước, rồi đến tám câu tả cảnh sau, không hề lẫn lộn, điều này chứng tỏ khi làm thơ, Nguyễn Du luôn luôn chủ động, để ý dắt theo lời, chứ không để lời lôi ý như một số nhà thơ khác.
Làm thơ tự do như đựng đồ đạc vào túi vải, chỗ nào có đồ đạc thì túi phồng lên, chỗ nào không có thì túi xẹp xuống. Làm thơ lục bát như đựng đồ đạc vào hộp các-tông, thể tích có sẵn, ai khéo tay thì lèn được nhiều đồ. Nguyễn Du là người “siêu tài” trong việc lèn ý vào các cặp lục bát. Hai câu đầu trong đoạn thơ trên là một trong những cặp lục bát điển hình lèn được nhiều ý:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
Là nhà thơ bình thường thì thật khó nghĩ ra để lèn hai chữ “khóa xuân” vào câu trên, và không tài nào diễn đạt nổi từng ấy ý của câu dưới chỉ gói gọn trong tám chữ. Đó chỉ là một phần nhỏ trong nghệ thuật lục bát của Truyện Kiều.
Hà Nội, 9 - 2015
Vương Trọng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét