Thứ Năm, 13 tháng 8, 2015

THÚC SINH TỪ BIỆT THUÝ KIỀU






THÚC SINH TỪ BIỆT THUÝ KIỀU
                             PHỤNG HOÀNG

“Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều” là một trong những trích đoạn tả cảnh đẹp nhất không chỉ riêng trong Truyện Kiều, mà còn của cả văn chương cổ điển Việt Nam nhiều thế kỷ.
Mối tình của Thúc Sinh và Thuý Kiều ban đầu vốn là mối tình của một nhà buôn đã có vợ và một kỹ nữ xinh đẹp chốn thanh lâu, bề ngoài không có gì khác với những mối tình trăng gió. Nhưng rồi số phận, nỗi đa đoan, sự đa cảm và chiều sâu trong tâm hồn Kiều cùng sự mê đắm của Thúc Sinh đã khiến mối tình đó, trong cái hiện thực khắc nghiệt và khao khát ở thời đại Nguyễn Du và Truyện Kiều, có một giá trị khác biệt.

Nếu  cảm nhận sâu hơn về thân thế Nguyễn Du - con của vợ thứ ba quan Tể tướng Nguyễn Nghiễm, và người mẹ sinh ra ông vốn là một phụ nữ nết na xinh đẹp xứ Kinh Bắc nổi tiếng hát hay, bà chết ở tuổi 39, khi Nguyễn Du mới 11 tuổi; ta sẽ hiểu vì sao Nguyễn Du lại dành cho Kiều và mối tình éo le của nàng một sự ưu ái sâu sắc đến như vậy. Và tình yêu, mối liên tài, sự quý trọng vô bờ đối với người phụ nữ đã tạo nên vẻ đẹp kiều diễm và chất thơ đầy lãng mạn trong các Thiên diễm tình của nhân vật Kiều, mà mối tình với Thúc sinh là một.
                                                *
Trích đoạn miêu tả cảnh Thúc sinh từ biệt Thuý Kiều, khi Thúc sinh theo lời  Kiều lên đường từ Lâm Tri, phải trở về Vô Tích trần tình cùng vợ cả, một tiểu thư con quan họ Hoạn.
Bản chất đắm say trong mối tình của họ đã khiến phong cảnh và tâm hồn nhân vật thấm đẫm một nỗi buồn ly biệt:
                             “Người lên ngựa, kẻ chia bào
                   Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san
                             Dặm hồng bụi cuốn chinh an
                   Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh
                             Người về chiếc bóng năm canh
                   Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi
                             Vầng trăng ai xẻ làm đôi
                   Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường”
Không một chút dấu vết của những đau thương khổ nhục khi Kiều vừa thoát khỏi lầu xanh của mụ Tú Bà!
Trích đoạn biểu hiện Kiều đã sống hết mình cho Thúc sinh, cho mối tình mây nước của nàng, cho ân nhân, người đã chuộc nàng ra khỏi lầu xanh, người đã say mê nàng và lấy nàng làm vợ. Trong mối tình đó, ta chỉ đọc thấy niềm rung động và vẻ đẹp của một trang tài tử hào  hoa với một giai nhân tuyệt sắc.
                            
“Người lên ngựa, kẻ chia bào
                   Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san”
Ta như hình dung thấy Thúc sinh vừa lên ngựa, lưu luyến không nỡ dứt, còn nàng Kiều vừa phải buộc buông áo của chàng. Cuộc chia tay diễn ra giữa một khung cảnh rừng phong thu đã trở nên đỏ rực.
Bạn đọc hẳn có thể liên tưởng tới bóng non vàng lộng lẫy trong một áng thơ Kiều:
                             “Long lanh đáy nước in trời
                   Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng”
 Nhưng dưới con mắt của đôi trai gái chia ly thì rừng phong thu đã tắt đi cái ánh  vàng huy hoàng rực rỡ, bởi đã nhuốm một màu quan san tê tái. “Quan san” đấy chính là cửa ải, nơi bên kia con đường sẽ dẫn chàng Thúc, người yêu của nàng Kiều tới Vô Tích, cũng là nơi về sau cả Kiều và Thúc sinh sẽ gặp nhau trong khổ đau và nước mắt.
Có thể cảm nhận được nỗi đau xót của hai người, trong phút chót của cuộc chia tay không thể nào trì hoãn, vì Kiều đã tiễn Thúc sinh tới nơi cửa ải cuối cùng và nàng không thể đi xa thêm được nữa. Nàng cứ nhìn mãi theo con đường đất đỏ mà bụi hồng cuốn theo chân ngựa, và còn nhìn theo mãi ngay cả khi hình bóng Thúc sinh đã khuất qua bao dặm đường trường:
                             “Dặm hồng bụi cuốn chinh an
                   Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh
Có thể khi đọc câu thơ trên, một bạn trẻ thời hiện đại sẽ ngạc nhiên: Có phải nơi “biên ải” ngày xưa người ta trồng dâu? và người ta trồng dâu xanh liền mạch với rừng phong chăng?
Có lẽ rằng không phải. Cho dù cảnh vật ở cuối Lâm Tri có rừng phong và ngàn dâu, thì khi vào thơ, sẽ trở thành ước lệ. Cũng bởi tại chưa một nhà nghiên cứu, một nhà thực vật học nào tìm đến Lâm Tri, suốt  chặng  đường nơi Thúc sinh từ biệt Thuý Kiều. Ta chỉ hiểu được thiên tiểu thuyết này như là tưởng tượng; và có lẽ là chính Nguyễn Du đã tưởng tượng, đã hoà màu vào bức tranh cổ điển, để dặm hồng biến thành dặm xanh nơi đã xa ngút mắt. Và như vậy là để màu xanh ngắt trở thành cõi vô cùng của biệt ly và xa cách, như hình tượng thơ được điệp lên bởi sự đánh thức trong tâm khảm cái màu xanh trùng trùng trong khúc ngâm não nề của người chinh phụ:
                             “Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
                             Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
                             Ngàn dâu xanh ngắt một màu
                             Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”
Nguyễn Du đã láy lại hình ảnh ngàn dâu trong Chinh phụ ngâm khúc nổi tiếng đương thời, để khắc đậm hơn vẻ sầu muộn, vốn là cái mỹ học sâu sắc căn bản của thơ cổ điển phương Đông, khiến không gian và tâm trạng nhân vật được nhuốm một sắc diện u buồn.
Trên cái nền tự sự của cảnh chia ly ấy, hai câu tiếp mô tả tâm trạng hai người  trong nỗi chia phôi:
                             Người về chiếc bóng năm canh
                             Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi
Người về/ Kẻ đi - chừng đó diễn tả hai phương của sự xa cách, và hình ảnh chiếc bóng năm canh gợi ra một dung nhan vò võ âm thầm. Hình bóng cô đơn lặng lẽ của nàng Kiều hiện lên giữa một không gian thao thức, còn phía bên kia thời gian hiện lên hình ảnh lẻ loi của Thúc sinh trên con đường muôn dặm. Bằng vào cách đó, Nguyễn Du đã diễn tả một cách thầm kín tấm thương vốn là bản chất rất sâu sắc trong tâm hồn người đàn bà.
Hai câu trên nếu dừng coi làm đoạn kết thì đoạn thơ chỉ có ý nghĩa của chia ly và xa cách, chưa có cái sắc thái đặc sắc của tình yêu. Nhưng cũng như những nhà thơ lớn của nhân loại - những thi sĩ đã viết nên thiên tình ca Tơritxtan và Izơ,…, và cũng như Sêcxpia, như Tônxtôi, Nguyễn Du đã cho trăng về làm ngời sáng cả vòm trời của đôi trai gái đang yêu và khiến nỗi nhớ nhung trở nên thao thiết và bất tử; đồng thời mang đến cho người đọc một hình tượng thơ hay vào bậc nhất, kiều diễm vào bậc nhất trong hình tượng những câu thơ Việt:
                             Vầng trăng ai xẻ làm đôi
                   Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường”
Vầng trăng xẻ nửa là vầng trăng tượng lên nỗi phân ly, bị cắt chia đau đớn, không  trọn vẹn, không hạnh phúc; nhưng vầng trăng ấy lại sáng soi vằng vặc và đầy thương cảm, nửa cho chiếc gối cô đơn khôn nguôi thao thức của nàng Kiều, nửa cho dặm đường xa xôi vời vợi của Thúc sinh. Riêng ngôn ngữ câu 8 có nhịp điệu 4/4 (một sự đổi nhịp kỳ diệu của câu bát trong lục bát), cộng thêm cấu trúc đối ứng như một tương tư! 
                                                *
Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều cả đoạn vẻn vẹn 8 câu, chỉ thông qua miêu tả, không trực tiếp biểu hiện nỗi lòng nhân vật. Vậy mà đã làm hiện lên cả khung cảnh, con người, cảnh vật, tâm trạng, cùng với những diễn biến của cuộc chia ly, từ lúc bắt đầu, trông theo, trở về, rồi thao thức. Nhân vật chính – nhân vật - cảm xúc là Kiều.
Cứ hai câu lại hiện lên một bức tranh, và Nguyễn Du đã vượt qua những thử thách, những nguyên tắc “thi trung hữu hoạ” bằng thiên tài của mình, để màu sắc, ánh sáng, đường nét và vẻ đẹp ước lệ, vẻ đẹp ngụ tình trong những bức tranh ấy vẫn làm xao xuyến, vẫn làm thổn thức tim ta.
Bức thứ nhất Nguyễn Du lấy màu vàng rực, màu đỏ rực – tức màu vàng đỏ u trầm lộng lẫy của rừng phong làm chủ đạo, bởi sắc diện có pha màu quan tái, để diễn tả cái khung cảnh huy hoàng tê tái của cuộc chia lý. Bức thứ hai Nguyễn Du lấy bụi hồng và màu xanh ngắt (tức dặm xanh) (của ngàn dâu) làm chủ đạo, diễn tả con đường xa muôn dặm và cái nhìn dõi theo đầy thương xót của Kiều; bức thứ ba lấy không gian giãn cách, không gian khuya vắng làm chủ đạo, diễn tả nỗi âu lo xa cách; bức thứ tư lấy ánh trăng - vầng trăng làm chủ đạo, diễn tả nỗi thao thức nhớ nhung. Thời gian trong 4 bức tranh nhất quán, được xếp theo tuyến tính, phù hợp với các  lớp  lang “truyện kể” nôm và diễn biến tâm trạng nhân vật; đường nét, bút pháp chấm phá, lãng mạn, nên thơ. Bộ tứ 4 bức tranh liên tiếp (cũng như 4 lần Kiều đánh đàn, 4 lần Kiều nhớ nhà) phản ánh cấu trúc mỹ học cân đối, hài hoà của thẩm mỹ cổ điển đương thời, và như ta thường thấy trong bộ bốn bức tranh Tố nữ tuyệt đẹp qua nét vẽ của các hoạ sĩ dân gian.
                                                *
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã mô tả ba mối tình của Kiều: Kiều với Kim Trọng, Kiều với Thúc sinh, Kiều với Từ Hải. Mối tình nào cũng sét đánh, cũng si mê ngay từ thuở ban đầu, khi thì dưới trời xuân “Cỏ non xanh dợn chân trời”, khi thì bởi nhan sắc và tiếng cầm ca, khi thì vì lời truyền tụng về cặp mắt xanh cao ngạo của Kiều. Ở nơi nào trong tuổi thanh xuân trong sáng và trong chuỗi trầm luân của cuộc đời Kiều, tình yêu cũng cứu chuộc nàng!
Trước Nguyễn Du đã có những truyện Nôm khuyết danh xuất hiện từ cuối thế kỷ thứ XVII đến giữa thế kỷ thứ XVIII, ca ngợi tình yêu vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến, như “Phan Trần”, “Lâm tuyền kỳ ngộ”, “Bạch Viên, Tôn Các”,”Bích Câu kỳ ngộ” … Là một nhà thơ lớn, Nguyễn Du đã viết về tình yêu nam nữ trong khuynh hướng tự do và nhân đạo của thời đại, như một đòi hỏi tự thân và như một nỗi khát khao chính đáng của những đôi trai gái yêu đương. Thiên tài của ông đã để lại trong Truyện Kiều những vần thơ hay nhất về những say đắm và những nỗi nhớ nhung sầu muộn của một tình yêu không trọn vẹn, lãng mạn và đầy bi kịch.
Đoạn trích “Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều” càng trở nên vô giá vì nó đã ghi lại được một trong những khoảnh khắc tốt đẹp nhất, quý giá nhất của cuộc đời Kiều: - khoảnh khắc được sống trong tình yêu và những giới hạn mong manh của tự do./.
  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét