Thứ Hai, 29 tháng 12, 2025

NHỮNG TỪ NGỮ LÝ THÚ BẤT NGỜ (1)

                                   

 ĐỖ CHIÊU ĐỨC
Viết lại có bổ sung...

Tạp Ghi và Phiếm Luận :   
                               NHỮNG TỪ NGỮ LÝ THÚ BẤT NGỜ  (1)
                               DANH LAM THẮNG CẢNH, LÃNH TỤ, CHỦ TỊCH, QUY CỦ. 
                                  Inline image
                             
       Có rất nhiều từ ngữ, thành ngữ mà ta sử dụng rất thường trong cuộc sống thường ngày, nhưng ta lại không hiểu rõ ý nghĩa của những từ đó là gì. Ta chỉ sử dụng theo thói quen với ý nghĩa chung chung, người ta nói thì mình nói theo. Như ta thường nói "DANH LAM THẮNG CẢNH" là thành ngữ dùng để chỉ những phong cảnh đẹp, mà ta không biết DANH LAM là gì ? và tại sao dùng từ THẮNG CẢNH, mà không dùng từ Mỹ Cảnh. Cũng như tại sao gọi người cầm đầu là LÃNH TỤ ? và phải tuân theo những QUY CỦ của tổ chức. Cái gì là LÃNH, cái gì là TỤ, cái gì là QUY, cái gì là CỦ .v.v... và .v.v...
       Sau đây ta sẽ lần lượt truy nguyên để tìm hiểu tận nghĩa gốc của các từ ngữ và thành ngữ lý thú nêu trên.

* DANH LAM THẮNG CẢNH 名藍勝景 : 
     - DANH 名 là Tên, là giỏi, là Nổi Tiếng; Như DANH TÍNH 名姓 là Tên Họ; DANH SƯ 名師 là Thầy giỏi; DANH CA 名歌 là Ca sĩ nổi tiếng, là Bài ca hay.
     - LAM 藍 do từ GIÀ LAM nói gọn lại. Theo Từ Điển Phổ Thông trên mạng : “Già-lam” 伽藍 là Chùa Phật. § Phiên âm chữ Phạn "samgharama", gọi tắt là “Lam”, nghĩa là nơi thờ “Phật” 佛, là Chùa chiềng. Trong Truyện Kiều gọi là GIÀ, khi tả Thúy Kiều ở Chiêu Ẩn Am với sư Giác Duyên cụ Nguyễn Du đã viết  :

                            Gió quang mây tạnh thảnh thơi,
                          Có người đàn-việt lên chơi cửa GIÀ.
                      (Cửa GIÀ là cửa GIÀ LAM, là cửa Chùa đó)

     - THẮNG 勝 là trái với Thua, là Hơn, là Vượt trội. 
     - CẢNH 景 là Phong Cảnh, chỉ núi non sông biển trời nước cỏ cây xung quanh ta.

                        Inline image

     Từ các nghĩa nêu trên, ta có :

      "DANH LAM 名藍" là những ngôi chùa nổi tiếng, "THẮNG CẢNH 勝景" là những phong cảnh vượt trội hơn những phong cảnh khác, (khác với MỸ CẢNH 美景 chỉ có nghĩa là Cảnh đẹp mà thôi!) Nên DANH LAM THẮNG CẢNH là "Nơi có phong cảnh đẹp vượt trội và những ngôi chùa nổi tiếng". Tại sao phải có chùa ở đây ? Nói chung, đây là đời sống tâm linh tín ngưỡng của dân Châu Á, của Trung Hoa và Việt Nam nói riêng, đạo Phật mấy ngàn năm nay đã ăn sâu vào đời sống quần chúng với thuyết "Sắc tức thị Không" lấy thanh tịnh làm gốc, nên thường chùa chiền đều được xây dưng ở những nơi hẻo lánh hay núi non vắng vẻ để dễ dàng cho việc tu tâm dưỡng tánh, mà những nơi núi non hẻo lánh nầy lại là những nơi có phong cảnh đẹp, như trong Tăng Quảng Hiền Văn có câu :

               世 間 好 語 書 說 盡 , Thế gian hảo ngữ thư thuyết tận,
               天 下 名 山 僧 佔 多 。 Thiên hạ danh sơn tăng chiếm đa.  
  Có nghĩa :    
          Trên thế gian nầy, những điều tốt, những lời nói hay, thì sách vở đã nói và ghi chép cả rồi. Và... trong thiên hạ nầy, phần lớn những núi non nổi tiếng đẹp đẽ đều đã bị các nhà sư chiếm cả rồi. Nên...
        Cảnh núi non hùng vĩ với non xanh nước biếc mà được điểm xuyết thêm hình ảnh của một mái chùa cong cong thấp thoáng ẩn hiện thì càng làm tăng thêm vẻ đẹp, vẻ nên thơ của phong cảnh lên gấp bội. Cho nên, hễ nơi nào có THẮNG CẢNH thì nơi đó có DANH LAM, và ngược lại, hễ nơi nào có DANH LAM thì nơi đó là THẮNG CẢNH, nên ta mới có thành ngữ DANH LAM THẮNG CẢNH. Theo "Tập quán Ngôn ngữ" sử dụng trong dân gian lâu ngày, thành ngữ nầy được dùng để chỉ tất cả những cảnh đẹp ở trên đời, kể cả những cảnh đẹp của Châu Âu, Châu Mỹ chỉ có nhà thờ, thánh đường chớ không có chùa chiềng miếu mạo gì cả, hễ nơi nào có cảnh đẹp là người ta dùng thành ngữ "DANH LAM THẮNG CẢNH" để diễn tả và gọi tên nơi đó. Ví dụ như :
       - Một trong những DANH LAM THẮNG CẢNH của Miền Trung Việt Nam ta là Phố cổ Hội An.
       - Tháp Eiffel, Khải Hoàn Môn, Nhà thờ Đức Bà, 37 cây cầu bắc ngang dòng sông Seine thơ mộng... đều là những DANH LAM THẮNG CẢNH của nước Pháp.

           Inline image

*  LÃNH TỤ 領袖 :
        Thông thường, người ta gọi người cầm đầu một băng nhóm, một tổ chức, một hội đoàn, một phong trào, thậm chí một quốc gia... là LÃNH TỤ. Vậy Cái gì là LÃNH, cái gì là TỤ và LÃNH TỤ là gì ?!...

    - LÃNH 領 : là Y Lãnh 衣領, là Bâu áo; còn TỤ 袖 : là Y Tụ 衣袖 là Tay áo. Tại sao gọi người đứng đầu là Bâu Áo và Tay Áo ? Thì ra trang phục ngày xưa của Trung Hoa, ngoài bộ đồ mặc sát mình bên trong ra, bên ngoài thường khoát thêm một chiếc áo dài với Bâu Áo Cao và hai Tay Áo Thật Rộng. Nên khi người cầm đầu đi trước thì những người đi phía sau phải nhìn vào cái Bâu Áo Cao (thường là với màu sắc sáng hơn nếu không phải là màu trắng) để đi theo; và nếu người đi trước giơ cao Tay Áo ngăn lại, thì những người đi sau đứng lại, đến khi Tay Áo khoát về phía trước thì lại đi tiếp... Cái người mà mọi người phải nhìn theo BÂU ÁO (Lãnh) để đi theo và phải tiến thoái theo cái TAY ÁO (Tụ) của người đó khi ra hiệu; Cái người đi đầu đó chính là LÃNH TỤ 領袖, là người CẦM ĐẦU đó vậy ! Nên...
      Ý nghĩa ban đầu của từ LÃNH TỤ 領袖 là chỉ người Cầm Đầu của một toán người, một nhóm người , một đội quân... Dần dà theo Tập Quán Ngôn Ngữ và thói quen sử dụng của quần chúng, từ LÃNH TỤ có nghĩa rộng lớn hơn, thường dùng để chỉ NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU của một phong trào, một tổ chức, một chính đảng và cả một quốc gia nữa. Ví dụ như :
      - Nguyễn Thái Học là LÃNH TỤ của Việt Nam Quốc Dân Đảng.
      - Dân Đài Loan gọi Tưởng Giới Thạch là "LÃNH TỤ của Chúng Ta 我們的領袖".

              Inline image
      
* CHỦ TỊCH 主席 :  

      Ngoài từ LÃNH TỤ ra, ta còn có từ CHỦ TỊCH cũng dùng để chỉ người đứng đầu :
      - CHỦ 主 : Người Sở hữu hay Đứng đầu một tổ chức, tập đoàn hay tôn giáo... như Gia Chủ, Địa chủ, Giáo chủ, Quân Chủ...
      - TỊCH 席 : là Chiếu, như Thảo Tịch 草席 là Chiếu cói, chiếu lác. Trúc Tịch 竹席 là Chiếu tre .  
     TỊCH còn có nghĩa là Chỗ Ngồi, như NHẬP TỊCH 入席 là Vào chỗ ngồi. Nên...
      - CHỦ TỊCH 主席 là Người ngồi đầu chiếu. Ngày xưa, cuộc sống còn đơn giản, hễ có việc gì đó cần hội họp thì cứ trải chiếu xuống đất mà ngồi, nên người ngồi đầu chiếu là người ai cũng nhìn thấy, là người phát ngôn, người ra lệnh hay phân bố công tác... là người chỉ huy đứng đầu. Dần dà theo "Tập Quán Ngôn Ngữ" nghĩa phát sinh rộng ra từ CHỦ TỊCH có nghĩa là người đứng đầu một tổ chức, một hội đoàn, một tập thể, một nhà nước... Như : CHỦ TỊCH Tập Đoàn, CHỦ TỊCH Quốc Hội, CHỦ TỊCH Nước. Như Chủ tịch Mao Trạch Đông, Chủ tịch Hồ Chí Minh...

      Cũng cùng là người đứng đầu, nhưng LÃNH TỤ thiên về nghĩa đứng đầu để DẪN DẮT, còn CHỦ TỊCH thì đứng đầu để ĐIỀU HÀNH. 

                      Inline image
                                               Lãnh Tụ  và  Chủ Tịch  tiêu biểu
   
*  QUY CỦ 規矩 :     
       Bất cứ đoàn thể hội đoàn hay một tổ chức nào đó cũng cần phải có QUY CỦ để duy trì trật tự, nề nếp sinh hoạt của tập thể tổ chức đó. Vậy Quy là gì, Củ là gì ? ta sẽ lần lượt tìm hiểu sau đây :

     - QUY 規 : là VIÊN QUY 圓規 là cái compass, dùng để vẽ đường tròn.
                    Không có QUY sẽ vẽ không tròn.
     - CỦ 矩 : là PHƯƠNG CỦ 方矩 là cây thước vuông góc (Ê-Ke), dùng để kẻ hình vuông.
                   Không có CỦ sẽ kẻ không vuông.

      QUY CỦ 規矩 có xuất xứ từ sách Chiến Quốc, Mạnh Tử, Li Lâu Thượng 戰國《孟子•離婁上》:"Li Lâu chi minh, Công Thâu Tử chi xảo, bất dĩ quy củ, bất năng thành phương viên 離婁之明,公輸子之巧,不以規矩,不能成方圓". Có nghĩa :
     "Có cặp mắt tinh tường như Li Lâu, có tay nghề khéo léo như Thâu Công Ban (Lỗ Ban : Ông Tổ của nghề Thợ Mộc), nếu không dùng đến QUY và CỦ cũng không thể kẻ thành hình vuông và vẽ thành vòng tròn cho được". 

                          Inline image

     Ý của Mạnh Tử muốn nói là dù cho có giỏi giắn khéo léo hay tinh minh mẫn cán tới đâu, nếu không có QUY CỦ, không tuân theo nề nếp nguyên tắc, thì cũng sẽ không làm nên "cơm cháo" gì cả ! cho nên tất cả những hội đoàn đoàn thể hay bất cứ tổ chức nào cũng phải có QUY CỦ NỘI BỘ của tổ chức đó. Cái Quy Củ Nội Bộ đó thường được gọi tắt cho gọn là NỘI QUY 內規, và tất cả mọi thành viên của tổ chức đó đều phải nghiêm chỉnh tuân thủ và chấp hành NỘI QUY đó.

                  Inline image
                                   VIÊN QUY 圓規 (compass) và PHƯƠNG CỦ 方矩 thước vuông góc (Ê-Ke) 
          
      Nếu không có NỘI QUY thì tổ chức sẽ không ra tổ chức; Hội đoàn sẽ không ra hội đoàn... Đoàn thể, Công ty, Bang hội... mạnh ai nấy làm, không cần tuân theo QUY CỦ gì cả, thì mọi việc sẽ rối lên, sẽ loạn cào cào và sẽ... không ra thể thống gì cả !   

      Trên đây là những từ ngữ rất thông dụng, rất thường thấy thường gặp hằng ngày trên sách vở, mặt báo, internet... Nhưng rất ít người quan tâm đến nghĩa gốc của nó và cũng không ai buồn tìm hiểu xuát xứ của nó làm gì; chỉ biết sử dụng theo thói quen của "TẬP QUÁN NGÔN NGỮ". Người ta sử dụng thì mình cũng sử dụng, miễn sao khi viết ra, nói ra mọi người đều hiểu hết là được rồi ! 

      Hẹn bài viêt tới !
                                                                                     杜紹德
                                                                                 Đỗ Chiêu Đức 
vnp_hoi_hoa_xuan_ecopark_2019_1   

Chủ Nhật, 28 tháng 12, 2025

NGUYỄN THỊ BÌNH bình thơ PHAN THỊ THANH NHÀN

 

NGUYỄN THỊ BÌNH bình thơ PHAN THỊ THANH NHÀN 

0.0.20._phan_thi_thanh_nhan


CHO MỘT NGÀY TA DỰNG LẠI KHÂM THIÊN
TỪ KHÂM THIÊN
                 PHAN THỊ THANH NHÀN
Sớm tinh mơ cùng với chuyến tàu qua
Phố thức dậy lo toan cần mẫn
Khâm Thiên làm ăn Khâm Thiên khỏe mạnh
Phố của anh và em, của Hà Nội bây giờ...
Khi trở về từ chiến trường xa
Xin anh chớ dừng lâu trên phố cũ
Xin chớ hỏi em từng bà con ngõ chợ
Đừng đếm nỗi đau trên hè vỡ một mình.
Em đã qua rồi, trong đêm-Khâm-Thiên
Không khóc được bởi căm hờn quá lớn
Chúng nó đã ném bom hủy diệt
Hủy diệt việc ăn làm, hủy diệt Tình yêu
Ngõ Hổ dài vụn nát dưới bom sâu
Bà con ta-hai trăm mười lăm người-không còn nữa
Thân bàng cũ gẫy rồi, không thể còn đứng tựa
Thư này em có nói được gì đâu!

Thứ Sáu, 26 tháng 12, 2025

NGUYỄN BÍNH - CHUÔNG NGỌ

 


CHUÔNG NGỌ

Nguyễn Bính
(Đọc bài thơ này có ai nhận ra đây là Nguyễn Bính "thi sĩ chân quê" không. Năm 1943 ở tuổi 25 ông có mặt ở Sài Gòn. Và theo như bài thơ này thì ông đã yêu một người con gái theo đạo tên Uyên mà ông không ngại kêu lên cả tên mình và tên người yêu trong thơ. Nhưng vì người ngoại đạo và người theo đạo nên mối tình đã không thành kết quả. Và nhà thơ của đồng bằng Bắc Bộ sống ở đô thành Nam Bộ đã trách Chúa, và tuyên xưng một Chúa khác của đôi lứa yêu nhau: Chúa lòng. Bài thơ này thuộc chuỗi thơ phương Nam của ông cho thấy một Nguyễn Bính giang hồ vô Nam đã có một diện mạo và giọng điệu rất khác với khi còn ở quê hương bản quán.)
Lạy chúa con xin chúa một giờ
Mười hai giờ ngọ của tình xưa
Chúng con hai đứa Uyên và Bính
Thường hẹn hò nhau mỗi buổi trưa.

NGUYỄN VĂN HOA giới thiệu THƠ GỚT

 

NGUYỄN VĂN HOA giới thiệu 

anh_anh_hoa

Thơ Gơt

Nguyễn Văn  Hoa giới thiệu 
 Thần Prometheus  ( Pro mê tê ) của   Gơt (JOHANN WOLFGANG GOETHE ( GỚT ) 1749-1832)
----
Che bầu trời của ngài, thiên chúa Zeus,
Có mây mù
Và luyện tập như một cậu bé
Trên cây sồi và độ cao núi!
Phải cho tôi trái đất của tôi
Nhưng hãy để nó đứng
Và túp lều của tôi mà ngài không xây
Và bếp của tôi
Đến than hồng của nó
Ngài  ghen tị tôi
Tôi không biết bất cứ điều gì nghèo hơn

Thứ Năm, 25 tháng 12, 2025

TÍNH NHÂN VĂN TRONG TÁC PHẨM CỦA TARAS SHEVCHENKO VÀ NGUYỄN DU

 


TÍNH NHÂN VĂN TRONG TÁC PHẨM CỦA TARAS  SHEVCHENKO

VÀ NGUYỄN DU

Nguyễn Xuân Hòa

Taras Shevchenko và Nguyễn Du - hai nhà thơ lớn ở hai đất nước xa nhau về địa
lý, nhưng hai trái tim lớn của họ đều đập cùng nhịp với muôn triệu trái tim của
nhân dân cần lao với hướng đi: đến với dân, sống vì dân và làm thơ vì hạnh phúc
của nhân dân.
   Thời đại Shevchenko (1814 – 1861) là thời đại của chế độ quân chủ chuyên chế
Nga hoàng nửa đầu thế kỷ 19 với chế độ nông nô hà khắc mà chính nhà thơ cũng là
một nạn nhân. Nhà thơ đã chứng kiến những cảnh đời bất công đầy rẫy trong xã
hội của đế chế Nga nên từ trong dòng sữa của người mẹ nông nô nhà thơ đã lớn lên
trong không khí phản kháng chế độ chuyên chế, đòi xóa bỏ chế độ nông nô.
Thời đại Nguyễn Du (1765 -1820) là thời đại mục nát của chế độ phong kiến cuối
thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, một thời đại đau khổ nhưng vô cùng oanh liệt bởi nhiều
cuộc khởi nghĩa nông dân nối tiếp nhau, điển hình là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã
lật đổ chế độ vua quan, đánh bại hơn 20 vạn quân nhà Thanh xâm lược, nhưng xã
hội Việt Nam lúc bấy giờ vẫn không thoát khỏi chế độ phong kiến mà người dân
vẫn là tầng lớp chịu nhiều đau khổ nhất.

Thứ Tư, 24 tháng 12, 2025

DỊCH MỘT BÀI THƠ RA NHIỀU PHONG CÁCH

 

DỊCH MỘT BÀI THƠ RA NHIỀU PHONG CÁCH 

nui_xanh

DỊCH MỘT BÀI THƠ... QUA NHIỀU “LĂNG KÍNH”
Có một bài thơ tình yêu rất nổi tiếng, tương truyền là của nhà văn và nhà viết kịch vĩ đại nhất nước Anh, William Shakespeare.
Nhưng một số “nguồn khác” lại cho rằng bài thơ này của Bob Marley! Một “thông tin” khác thì nói rằng đó là của một nhà thơ người Thổ Nhĩ Kỳ tên là Qyazzirah Syeikh Ariifin(?)
Thật khó để biết đâu là nguồn ‘xác tín’! Chỉ biết chắc một điều rằng đây là một bài thơ cũng đáng được quan tâm, và thú vị hơn ở đây, là nó được ‘dịch’ qua nhiều “lăng kính”…
Bài thơ như sau:
You say that you love the rain,
But you open your umbrella when it rains.
You say that you love the sun,
But you find a shadow spot when the sun shines.
You say that you love the wind,
But you close your windows when wind blows.
This is why I am afraid,
You say that you love me too.

Thứ Ba, 23 tháng 12, 2025

NGUYỄN THỊ BÌNH bình thơ HOÀNG PHƯƠNG NHÂM

 



NGUYỄN THỊ BÌNH giới thiệu



Hôm qua NTB đăng bài bình thơ “Tình khúc tuổi năm mươi” của nhà văn Kao Sơn, không ngờ đã gây “Bão” trên mạng xã hội với rất nhiều lượt like, bình luận và chia sẻ. Tiếp theo chủ đề ấy, hôm nay NTB đăng bài bình “Cho người dưng ấy” của nhà văn Nhâm Hoàng Phương (Vợ NV Kao Sơn) để thấy cách ứng xử của người vợ khi chồng mình “Vướng tình ở tuổi năm mươi” như thế nào ?
NGƯỜI DƯNG ẤY, NGƯỜI DƯNG ƠI
CHO NGƯỜI DƯNG ẤY
Người dưng ấy, người dưng ơi
Dịu dàng chi, để chồng tôi phải lòng.
Để rồi bỗng hoá hư không
Bao nhiêu ấm lạnh, mặn nồng từ xưa
Để rồi bỗng thấy như thừa
Tôi như áo rách te tua góc giường
Thôi thì…người hãy cứ thương
Cho chồng tôi gửi tơ vương cuối trời
Hãy làm chút nắng người ơi
Chồng tôi đang lạnh lẽo nơi nhà mình
Ví dầu duyên kiếp ba sinh
Người dưng ơi, hãy đáp tình chồng tôi
Người dưng ấy, người dưng ơi…
(Hoàng Phương Nhâm)

LỜI BÌNH NGUYỄN THỊ BÌNH 
Hoàng Phương Nhâm không chỉ là một cây bút văn xuôi khá già giặn, mà chị còn là một nhà thơ giàu nữ tính, nhân hậu và rất vị tha. Điều đó được thể hiện khá rõ qua bài thơ: “Cho người dưng ấy” của chị. Bài thơ được nhiều độc giả rất yêu thích (nhất là những độc giả nữ).
Bài thơ có xuất xứ khá đặc biệt. Sau khi được nhà văn Kao Sơn (chồng chị) khoe về bài thơ “Tình khúc tuổi năm mươi” anh vừa sáng tác (bài thơ nói về nhân vật tôi nào đó “Tự dưng chập mạch phải lòng người dưng”, ở tuổi năm mươi), chỉ ít phút sau chị đã có bài thơ “Cho người dưng ấy” để trả đũa tác giả “Tình khúc tuổi năm mươi” một cách “ngọt ngào”, nhưng không giấu được đắng cay và chua chát. Nhưng theo tôi, đó chưa phải là vấn đề chính của bài thơ. Mà vấn đề chính ở đây là cách ứng xử, lòng nhân hậu, bao dung của người phụ nữ trong một hoàn cảnh trớ trêu, khi phát hiện chồng mình “phải lòng người dưng” ở tuổi… năm mươi.
Bài thơ được viết theo thể lục bát, câu mở đầu và câu kết là một điệp khúc: “Người dưng ấy, người dưng ơi”. Với cách ngắt giọng khác thường (3/3), câu thơ như một tiếng nấc nghẹn ngào:
Người dưng ấy, người dưng ơi
Lời gọi có vẻ thiết tha mà sao chua xót đến vậy! Người phụ nữ không gọi chồng mình - người đang lạc bước, hãy quay về với tổ ấm gia đình mà gọi người dưng - cái người đã là nguyên nhân làm cho “Bao nhiêu ấm lạnh mặn nồng từ xưa”, bỗng chốc hoá thành hư không tất cả. Hãy đặt mình vào tình cảnh thực tại của người phụ nữ trong bài thơ, người đọc sẽ cảm nhận được hết nỗi niềm đắng cay, chua xót ấy. Tình cảm vợ chồng đã mấy mươi năm ngọt bùi, gắn bó “ấm lạnh, mặn nồng”, người phụ nữ với tâm hồn nhạy cảm ấy, hẳn là rất hiểu chồng. Chị hiểu rõ nguyên nhân vì sao chồng mình lại bỗng dưng “phải lòng người dưng”, ở cái tuổi chưa hẳn đã già nhưng cũng không còn trẻ. Bởi thế, chị đã “bắt được mạch” và đoán đúng “con bệnh”: không phải là sự trẻ trung, xinh đẹp mà chính nét dịu dàng của “người dưng ấy” là nguyên nhân “để chồng tôi phải lòng”. Tìm ra bệnh, chị lại tự mình “kê đơn, bốc thuốc” theo cách rất riêng. Chỉ với mong muốn “chữa lành bệnh” cho chồng, còn mình, lại âm thầm chịu đựng một cách… tội nghiệp. Chị thấy mình bỗng chốc hoá như người thừa, thậm chí “như áo rách te tua góc giường”. Thú thực, tôi không thích hình ảnh này, vì nó đã làm cho người phụ nữ lẽ ra phải được chở che, bênh vực lại trở nên đáng thương đến thảm hại. Nhưng tôi hiểu, chị đã cố nói quá lên như thế, cũng là một cách cảm thông, bào chữa, cho chồng, khi anh có ý định san sẻ tình yêu đó chăng?
Để hiểu thêm điều này, ta hãy đọc lại tiêu đề bài thơ: Cho người dưng ấy. Thoạt nghe đã thấy dụng ý của tác giả quá rõ ràng. Có điều gì chị muốn nói với “người dưng ấy”? Chì chiết chăng? Xúc phạm chăng? Cũng có sao! Vì nó rất đúng với quy luật: “ớt nào mà ớt chẳng cay”…kia mà! Nhưng không, tất cả đã hoàn toàn ngược lại. Men theo từng câu chữ của bài thơ, tác giả đã dẫn dắt người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác:
Thôi thì… người hãy cứ thương
Cho chồng tôi gửi tơ vương cuối trời
Hãy làm chút nắng người ơi
Chồng tôi đang lạnh lẽo nơi nhà mình
Ví dầu duyên kiếp ba sinh
Người dưng ơi, hãy đáp tình chồng tôi.
Đó là lời gọi mời? Không! Là lời cầu xin khẩn thiết và đau đớn. Ta hiểu trước khi nói những lời đớn đau ấy, chị cũng dằn vặt, cũng đắn đo. Dấu chấm lặng(…) đặt sau từ “thôi thì” như một tiếng thở dài buồn bã để rồi người phụ nữ… chấp nhận. Chị đã nói cái điều lẽ ra không nên nói. Tại sao đứng trước nguy cơ tình yêu có thể chia sẻ, hạnh phúc có thể tan vỡ mà người phụ nữ vẫn bình tĩnh, bao dung một cách khác thường đến vậy? Tôi bỗng nhớ đến câu chuyện kể về một người phụ nữ. Khi biết chồng mình đang hẹn hò với người phụ nữ khác ngoài công viên lộng gió, bà đã lặng lẽ đi theo, không phải để đánh ghen, mà chỉ để khoác lên vai chồng một tấm áo ấm, quàng lên cổ chồng một chiếc khăn len, với lời giải thích chỉ có thể có ở một người vợ rất mực yêu chồng: “Ông phải cẩn thận cho sức khoẻ, đêm khuya trời lạnh, ngồi ngoài này dễ cảm lắm”…Cử chỉ khéo léo và vô cùng tế nhị ấy của bà đã giữ được chồng. Ít phút sau ông trở về nhà và không bao giờ lặp lại những cuộc hẹn hò tương tự. Lối ứng xử của người vợ trong bài thơ “Cho người dưng ấy”, cũng là một cách giữ chồng độc đáo. Ai cũng hiểu, chị viết bài thơ trên không phải cho người dưng ấy, mặc dù điệp từ người dưng, người được lặp lại tới 8 lần một cách tha thiết. Ta hiểu rằng chị không khờ dại tới mức “vẽ đường cho hươu chạy”. Địa chỉ mà chị muốn gửi ở đây chính là “chồng tôi”- chồng của chị. Người phụ nữ ở vào tình cảnh ấy vẫn một điều chồng tôi, hai điều chồng tôi (chồng tôi lặp lại 4 lần) cũng đủ thấy chị yêu thương lo lắng cho chồng tới mức nào. Và người chồng của chị, mặc dù có được vợ “cho phép phải lòng người dưng” (anh kể chị nói với anh rằng, chuyện ấy chị không cấm, nhưng nếu đã phải lòng thì cố mà phải lòng lấy một người... dịu dàng… ). Dù điều kiện của chị đã được đáp ứng, nhưng tôi dám chắc khi nghe những lời này, anh cũng không dại gì mà dại thêm nữa. Còn “người dưng ấy”, nếu có đọc được nỗi lòng này của chị, hẳn sẽ thấm thía và nhận ra sự hy sinh lớn lao của một người vợ rất yêu chồng, tất cả vì chồng, vì con, vì cái gia đình nhỏ bé thân yêu của mình. Và như vậy, “người dưng ấy” hẳn cũng chẳng dại gì mà đem chút nắng hiếm hoi sưởi ấm cho người khác, trong khi để nhà mình lạnh lẽo…
Bài thơ được kết cấu theo kiểu đầu cuối tương ứng. Cách kết cấu như vậy ý thơ không đóng khép mà lại mở ra bao điều trăn trở và suy ngẫm về cuộc sống, về tình yêu, hạnh phúc… Cứ nhẹ nhàng tình, cảm như không, bài thơ đã đem đến cho người đọc một cách nhìn nhận, một lối ứng xử thật tinh tế và khéo léo của người phụ nữ trước nguy cơ tan vỡ hạnh phúc gia đình. “Lạt mềm buộc chặt; nói ngọt thì lọt đến xương” âu cũng là thông điệp mà tác giả bài thơ muốn gửi đâu phải chỉ riêng cho người dưng ấy?
Bài đã đăng trên TC Văn nghệ Ninh Bình (2008) và in trong tập LLPB “Nỗi niềm giăng mắc”- NXBVH, 2014
vnp_hoi_hoa_xuan_ecopark_2019_1