Thứ Hai, 15 tháng 12, 2025

TRANH KHÔN VỚI AI (TRÍ TUỆ NHÂN TẠO)

 

TRANH KHÔN VỚI AI Sửa

MỜI MỌI NGƯỜI XEM VŨ NHO TRANH KHÔN VỚI AI

ĐÂY LÀ LỜI BÌNH CỦA AI CHO BÀI THƠ "TRÁCH" CỦA CHỬ THU HẰNG SAU HƠN 1 PHÚT!

chu_thu_hang

Một nỗi “Trách” thầm lặng của tình cảm đến muộn
“Trách” là một bài thơ ngắn, dung dị về hình thức nhưng hàm chứa chiều sâu cảm xúc, khắc họa trạng thái tâm lý phổ biến của con người khi rơi vào một mối duyên đến muộn – thứ tình cảm vừa nồng nàn vừa bất lực.
Thủ pháp điệp từ “trách” ở phần mở đầu không chỉ tạo nhịp điệu cho bài thơ mà còn dựng lên một vòng luẩn quẩn của cảm xúc: trách trời, trách đất, trách mây rồi cuối cùng quay về tự trách chính mình. Cách chuyển hướng đối tượng trách móc cho thấy bản lĩnh tỉnh táo của cái tôi trữ tình: nhận thức được rằng nguyên do sâu xa không nằm ở ngoại cảnh, mà bắt nguồn từ sự “ngơ ngẩn để say cuối chiều” – một khoảnh khắc yếu lòng rất đời.
Hình ảnh “Đã hai thứ tóc lại liêu xiêu buồn” là điểm nhấn giàu tính biểu tượng, gợi mâu thuẫn giữa tuổi tác và cảm xúc. Ở độ tuổi đáng lẽ phải an nhiên, nhân vật trữ tình lại rơi vào trạng thái chông chênh, dường như không còn kiểm soát được đời sống tinh thần của chính mình. Cảm xúc ấy được đẩy cao qua chuỗi trạng thái đối lập “khuya – sớm”, “vào – ra”, tạo nên cảm giác bất an kéo dài, một sự xáo trộn âm ỉ trong nhịp sống thường ngày.
Đặc biệt, tác giả sử dụng ngôn ngữ tiết chế, tránh bi lụy, nhưng vẫn làm hiện rõ nỗi ám ảnh của tình yêu muộn màng: “mất hồn, lạc tâm” không phải là sự cuồng si, mà là trạng thái rối loạn tinh thần nhẹ, chân thực, gần với đời sống nội tâm của con người hiện đại.
Hai câu kết, với hình ảnh “tiếng sắt cầm” mang màu sắc cổ điển, đưa bài thơ trở về truyền thống thơ ca Á Đông, nơi tri âm – tri kỷ luôn gắn với giới hạn và số phận. Cái “thương vụng, nhớ thầm” như một sự chọn lựa có ý thức: yêu nhưng không thể nói, nhớ nhưng không dám bày tỏ. Tiếng thốt “Giời ơi!” khép lại bài thơ không phải như một lời oán thán, mà như một tiếng thở dài, chấp nhận và cam chịu.
Nhìn tổng thể, “Trách” không tìm cách kể một câu chuyện tình cụ thể, mà chọn khắc họa một trạng thái tinh thần quen thuộc trong đời sống: khi con người đủ chín để hiểu rằng có những thứ đến quá muộn vẫn khiến ta rung động, nhưng cũng đủ tỉnh táo để giữ chúng lại trong im lặng. Chính sự tiết chế đó tạo nên sức nặng cảm xúc và giá trị của bài thơ
 
CÒN DƯỚI ĐÂY LÀ LỜI BÌNH CỦA VŨ NHO SAU HƠN 3 TIẾNG ĐỒNG HỒ  ( HƠN 180 PHÚT)

LỜI BÌNH của VŨ NHO

v_nho_nguyn_kh

        Bài thơ lục bát này nói về một nỗi buồn. Nỗi buồn không phải của tuổi trẻ, mà nỗi buồn của một người đã luống tuổi, đã “hai thứ tóc”, đã vào tuổi “cuối chiều”. Vì sao mà buồn? Buồn vì bỗng nhiên vướng phải “bùa yêu”. Ôi chao, yêu khi xế chiều, yêu khi đầu hai thứ tóc, yêu khi không còn khả năng để đi đến hôn nhân.

        Cái tình muộn ấy cũng thật mãnh liệt, thật đắm say như thuở thanh xuân.

Người ta trẻ trung khi yêu thì:

        Như đứng đống lửa, như ngồi đống than

Còn nhân vật trữ tình trong bài thơ này thì:

        Khuya thảng thốt sớm bồn chồn

        Vào ra như kẻ mất hồn lạc tâm

Tôi nghĩ đến nhà thơ Xuân Diệu khi yêu:

        Hồn tôi theo bước người qua ấy

        Cho đến hôm nay vẫn chẳng về ( Tình qua) . Yêu đến lạc hồn!

Nhân vật trữ tình ở đây thảng thốt bồn chồn buổi khuya, buổi sớm, nghĩa là suốt đêm ngày.  Đi vào, đi ra  nhưng thẫn thờ không làm chủ được mình “như kẻ mất hồn lạc tâm”. Một tâm trạng say mê, bối rối, thảng thốt, bồn chồn. Ai dám bảo khi có tuổi tình yêu không mãnh liệt!

Nếu còn trẻ, tôi chắc người đàn bà này cũng sẽ làm như Thúy Kiều “ Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình “ để đến với người tình cố ý “thả bùa yêu”. Nhưng ở tuổi xế chiều, lí trí già dặn không cho phép người ta bồng bột, mạnh mẽ phá rào, cho nên chỉ còn biết “trách” mà thôi.

        Trách tri, trách đất, trách mây

Trách mình ngơ ngđể say cui chiu

Trách người n th bùa Yêu

Đầu tiên là trách những thứ xa xôi chả liên quan gì đến chuyện này. Ấy là Trời, Đất, Mây. Người xưa dạy “Tiên trách kỉ hậu trách nhân”. Người này trách nhân trước ( trách người  gồm Trời, Đất, Mây) rồi trách kỉ ( trách mình ngơ ngẩn). Rồi lại trách nhân, trách cái người “nỡ thả bùa Yêu”. Không phải là chuyện lời yêu gió bay mà là “bùa yêu”. Một thứ bùa ngải làm ai vướng phải thì không thể gỡ!

Bài thơ này gợi nhớ bài thơ YÊU cũng của nữ sĩ Chử Thu Hằng. Phải chăng khi “dính bùa”, nhân vật trữ tình đã “làm mới” lại mình:

Còn kịp không? Em tập khóc tập cười/ Tập mềm mại đong đưa, tập dại khờ nông nổi/ Chẳng còn nhiều thời gian, em đang rất vội/ Làm mới lại mình. Em tập nói chữ “yêu”.

Trách móc không phải là giải pháp.

Vậy thì có cách nào hơn không? Thật buồn là hoàn toàn không! Vì đã muộn, vì đã lỡ, vì không thể nói chuyện “sắt cầm” được nữa.

Lại nhớ đến người phụ nữ trong “Tiết phụ ngâm” của Trương Tịch, Trung Quốc. Thì ở Việt Nam thế kỉ 21 cũng có một “Tiết phụ ngâm mới” trong bài “Trách” này.

Giải pháp cuối cùng cho tình huống ngang trái, trớ trêu này là:

        Đành lòng thương vng nh thm.   Giơi!

Đành lòng vậy! Cầm lòng vậy! Thương vụng, nhớ thầm thôi.

Tiếng kêu Giời ở cuối câu cũng là cuối bài là một tiếng kêu đau đớn, thảng thốt của một tình cảm bị dồn nén, của một trái tim bất lực. Nhưng chính vì thế mà rực sáng một vẻ đẹp của tình yêu đơn phương mãnh liệt!

                     Hà Nội, 10/12/2025

vnp_hoi_hoa_xuan_ecopark_2019_1

                                                         

           

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét