VỀ TẬP THƠ MỚI CỦA ÁI NHÂN

MỘNG VÀ ĐỜI TRONG THU MẮT NÂU CỦA NHÀ THƠ ÁI NHÂN
Có những nhà thơ đến với thi ca như đến với một giấc mộng đầu đời, vụng dại, hồn nhiên mà say mê đến tận cùng. Nhưng cũng có những người, sau khi đi gần trọn một hành trình dâu bể, lại tìm về với thơ như tìm về cội nguồn tâm hồn mình. Họ làm thơ không để khẳng định mình, mà để soi mình, để sống tiếp một phần đời khác, phần đời của những âm vang, ký ức, và những niềm yêu chưa tắt. Trong số ấy, Ái Nhân là một người đặc biệt.
Có những nhà thơ đến với thi ca như đến với một giấc mộng đầu đời, vụng dại, hồn nhiên mà say mê đến tận cùng. Nhưng cũng có những người, sau khi đi gần trọn một hành trình dâu bể, lại tìm về với thơ như tìm về cội nguồn tâm hồn mình. Họ làm thơ không để khẳng định mình, mà để soi mình, để sống tiếp một phần đời khác, phần đời của những âm vang, ký ức, và những niềm yêu chưa tắt. Trong số ấy, Ái Nhân là một người đặc biệt.
Ông từng là giảng viên quân đội, nơi của kỷ luật, lý trí và nghiêm cẩn, nhưng ở sâu thẳm lại là một trái tim giàu rung cảm lãng mạn, một người đàn ông mang trong mình ngọn lửa của thi ca không bao giờ tắt. Thơ với ông là sự tìm tòi con đường tiến lên, và cũng là sự trở về, một sự trở về đầy nhân hậu và thủy chung với chính phần tinh khôi nhất của con người.Đến với tập thơ Thu Mắt Nâu (Tập thơ tình thứ 14 với 101 bài thơ của Ái Nhân) người đọc như được bước vào một thế giới riêng của cảm xúc, nơi mỗi câu thơ là một nhịp thở, mỗi hình ảnh là một lát cắt của tâm hồn, vừa từng trải, vừa trẻ trung, vừa lãng mạn của người đã đi qua những truân chuyên cuộc đời.
“Thu Mắt nâu” ba tiếng ấy thôi đã đủ khiến ta nghĩ đến một ánh nhìn, một vệt nắng thu, một mảnh ký ức xa xăm mà da diết. Và thật vậy, ngay từ bài thơ lấy làm đầu đề tập thơ “Thu mắt nâu”, ta đã bắt gặp một thế giới rất riêng, thế giới của “mắt nâu” dịu và sâu, của ánh nhìn mê hoặc mà buồn vời vợi.
“Lang thang tìm ngâu/Gặp mắt nâu thăm thẳm/Heo may xanh/Thiên thanh mê đắm…”
Câu thơ như một dòng nước trong vắt vừa chảy qua trái tim, vừa ngân lên trong ký ức. “Mắt nâu” không chỉ là đôi mắt của người con gái, mà còn là biểu tượng của nỗi nhớ, của khát vọng được yêu và được tan chảy trong yêu. Trong ánh nâu ấy, dường như có cả mùa thu bảng lảng, có nỗi cô đơn của thiếu phụ và của người thi sĩ tìm bóng mình trong ký ức mùa xa.Ái Nhân không viết để kể, mà để cảm thông chia sẻ, mà để sống lại, từng cơn gió, từng giọt heo may “khao khát mắt nâu” vời vợi.Tình yêu trong thơ ông luôn mang màu của nghi lễ thiêng liêng. Đọc bài “Tắm thơ”, ta ngỡ đang chứng kiến một cuộc hiến tế của cảm xúc: “Ta còn một vại thơ yêu/Chắt hồn tinh túy mỹ miều tẩm hương/Mang về nước tận sông Tương/Trong veo tiếng sáo chàng Trương thuở nào…”
Cái “vại thơ” ấy là biểu tượng của một đời thi sĩ, nơi cảm xúc được ủ men như rượu quý, chắt ra từng giọt, trong suốt và say nồng. Tình yêu trong thơ Ái Nhân không phải thứ đam mê vụng trộm, mà là sự thăng hoa của linh hồn.
“Em như tiên giữa hồng trần/Vồng cong ngực nõn muôn phần đẹp xinh”
Câu thơ vừa ngợi ca vẻ đẹp trần thế, vừa giữ được sự thanh khiết của người đang chiêm bái. Ở Ái Nhân, bản năng và thi vị không đối lập, mà hòa làm một. Ông dám gọi tên sự sống trong vẻ nguyên sơ nhất của nó, để rồi từ đó, biến xác thịt thành thi ca, biến đắm say thành lời kinh tình yêu.
Khi đến với bài “Đàn bà & Đàn ông”, ta bắt gặp một cái nhìn nhân văn, vừa hài hước, vừa triết lý:
“Đàn bà thơm tho trái chín/Đằm thắm yêu thương / hiền ngoan cô Tấm/Dịu dàng như trăng…”
Một chân dung vừa dân gian, vừa hiện đại, vừa ngọt ngào, vừa thẳm sâu. Còn đàn ông thì “ga lăng thiện hiền như chàng Chử/Bờ vai vững chãi chở che đàn bà ngây thơ vụng dại…”.Đàn bà và đàn ông trong thơ Ái Nhân không chỉ là hai giới tính, mà là hai nửa của nhân sinh, soi vào nhau mà thấy chính mình. Trong bài “Bản năng”, thi sĩ đi xa hơn: “Lột bỏ áo Người/Căng thơm ngà ngọc/Mở toang thiên đường hoan lạc…”
Lời thơ táo bạo mà trong sáng, bởi cái “thiên đường” mà anh nói tới không phải cõi xác thịt, mà là cõi hòa nhập của linh hồn và thân xác, của thơ và đời, nơi con người sống trọn vẹn nhất với cảm xúc mình.
Thế nhưng, đằng sau những cơn say ấy vẫn có những khoảng lặng buồn, những giọt trầm của một tâm hồn từng trải qua truân chuyên dâu bể.Thơ anh còn hóa hồn trong nỗi buồn thiếu phụ:
“Anh đi từ ngày sen nở/Ngâu sang mà chửa thấy về…” (bài Trống vắng)
Câu thơ nhẹ mà đau. Cái “trống vắng” không chỉ là của người chờ, mà còn là nỗi cô đơn của kẻ đi, lạc giữa những miền ký ức.
Đến “Vô duyên”, thi sĩ lại thở dài “Khạo khờ lỡ hẹn trầu cau/Vô tình mình đánh mất nhau… vô tình.”
Buồn đến độ không còn muốn trách, chỉ còn lại nỗi thương mình và thương người. Những bài thơ ấy khiến Thu mắt Nâu trở nên trọn vẹn hơn, bởi nó không chỉ có lửa của tình yêu, mà còn có tro của tiếc nuối, khói của thời gian, và hơi ấm của lòng nhân hậu.
Bên cạnh đó, Ái Nhân còn mở ra một chiều sâu siêu hình trong “Vĩnh hằng” và “Thức mộng”. Ông coi tình yêu như một tôn giáo:
“Trái tim ngây thơ thầm ước/Vĩnh hằng, Tôn giáo tình yêu…”
Yêu là tin, là hiến dâng, là vĩnh cửu. Nhưng rồi trong “Thức mộng”, ông lại khẽ cười với chính mình:
“Gã khờ khạo Adam giờ có vợ/Quên đi nào, ơi con nợ giấc mơ!”
Một chút tự giễu, một chút hóm hỉnh, đó là sự tỉnh thức của người từng trải: Biết yêu hết lòng, nhưng cũng biết dừng lại khi mộng đã tan. Cái hóm hỉnh ấy làm cho thơ anh vừa thâm trầm vừa duyên dáng, khiến người đọc mỉm cười mà vẫn thấy trong lòng thoảng chút ngậm ngùi.
Và dẫu phiêu du trong miền cảm xúc, thơ Ái Nhân vẫn neo mình nơi làng quê dân dã, nơi có những cô thôn nữ dịu dàng như “Thị vàng cô Tấm” là minh chứng: “Nắng vàng như mật ong/Nhuộm vàng ươm trái thị/Long lanh trong mắt chị/Hây hây hồng má em…”
Chỉ bốn câu thơ thôi mà gợi ra cả một miền ký ức dân gian, mộc mạc mà duyên dáng. Ở đó, ta thấy hơi thở của đồng quê, vị ngọt của đất, tiếng cười của người làng, và ánh mắt hiền hậu của người con gái Việt.
Ái Nhân, người con Hưng Yên đã mang cái hồn ngọt ngào của vùng quê nhãn lồng, cái mặn mòi của phù sa sông Hồng, cái giản dị của lòng người trong từng câu chữ. Dù nói chuyện yêu đương hay triết lý, thơ ông vẫn có hương thơm cốm mới, ngai ngái mùi rơm rạ đồng quê, văng vẳng tiếng chuông chùa, da diết tiếng chim gọi nắng, và ánh mắt nâu dịu như buổi chiều quê thanh bình. Sau những đắm say và chiêm nghiệm, thi sĩ khẽ chùng giọng lại trong bài “Biết đủ”:“Đời bể dâu chìm nổi/Vì lợi danh tình tiền/Tham sân si… độc dược/Giết chết mình trước tiên…”
Rồi tự an ủi:
“Bình an và hạnh phúc/Không cần nhiều lắm đâu/Biết đủ tâm an lạc/Sống khỏe vui… bạc đầu.”
Đó không chỉ là triết lý sống, mà còn là những lời chia sẻ với đời. Khi đã đi qua đủ men say, thi sĩ biết mỉm cười nhìn đời, biết yêu mà không dính mắc, biết sống mà không cần thắng thua. Cái “biết đủ” ấy chính là đỉnh cao của một tâm hồn từng khát, từng cháy, từng rực sáng.
Khi đọc đến cuối tập thơ, ta bắt gặp những vệt lửa lặng mà bền trong “Hoa gạo”, “Tím trôi”, “Đời cỏ”.Trong “Hoa gạo”, ông viết: “Đuốc lòng vời vợi nhớ/Đốt trời cao… cháy mình.”
Ngọn lửa hoa gạo tháng 3 là biểu tượng của tuổi trẻ, của khát vọng hiến dâng và cả sự hy sinh. Rồi đến “Tím trôi”: “Bến mơ trơ hồn đá cuội/Lục bình tím ngác ngơ trôi.”
Sắc tím ở đây là màu của thủy chung, nhưng cũng là màu của phôi pha, của những điều đã đi qua mà vẫn còn ngân lại trong lòng. Và khi khép lại bằng “Đời cỏ”, ông như để lại cho đời một lời nhắn gửi nhẹ mà sâu: “Cỏ âm thầm lặng lẽ/Giữa muôn vàn gió sương/Bền gan bám vào đất/Da diết hồn quê hương.” - Cỏ, chính là tâm hồn thi sĩ, khiêm nhường, bền bỉ, lặng lẽ mà xanh mãi trong lòng đời.
Vì thế Thu mắt Nâu không chỉ là tập thơ tình, mà là bản giao hưởng của một đời người, có yêu, có khổ, có tỉnh, có say.
Thơ Ái Nhân có bản năng mà không trần tục, có triết lý mà không khô cứng, có khát vọng mà vẫn đầy độ lượng. Anh là người đã đi qua chiến tranh bảo vệ biên giới Tổ quốc, qua những thăng trầm bụi bặm của cuộc sống, để mang về “một vại thơ yêu” chắt ra từ chính nỗi cô đơn và niềm thương nhớ của mình.
Gấp trang cuối, ta vẫn còn nghe vọng lại câu thơ trong “Lửa tim”: “Lửa tim đuốc sáng ngời ngời/Chắt mưa nắng chuốt muôn lời yêu thương.” Lửa ấy là lửa của thơ, của lòng người, của trái tim thơ nồng cháy Ái Nhân, ngọn lửa biết cháy để soi sáng, biết rực lên để sưởi ấm, và biết âm ỉ để sống cùng năm tháng. Với ông, sống là để yêu, yêu là để làm thơ, và làm thơ là để đời còn long lanh mãi trong “mắt nâu” ký ức./Quảng Ninh 10/2025 - Nhà báo Nguyễn Tuấn Điệp

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét