LẠI THÊM HAI ĐÓA HOA HỒNG
Nhắc Lại Chuyện Văn
Chương Trên Facebook
Trò chơi văn chương trên FB khác với các trang web văn học
trên Internet. Nơi đây tác giả và độc giả thuộc đủ mọi thành phần, thượng vàng
hạ cám. Việc góp ý, bình luận trên FB rất dễ dàng. Miễn bạn giữ thái độ lịch sự,
hòa nhã thì dù bình luận của bạn có “chưa tới”, dở ẹc hoặc “trật bàn đạp” cũng
đều được đón nhận một cách vui vẻ.
Những bài viết về thơ của tôi nhận được khá nhiều bình luận
như vậy. Nhưng bên cạnh đó cũng có những bình luận nội lực văn chương sung mãn,
thổi vào bài viết một luồng gió mới tươi mát, đưa ra một phương cách mới để nhìn
nhận vấn đề một cách sâu sắc.
Bài Thơ Xuất Hiện
Như Ánh Chớp
Cách đây không lâu, dưới bài viết Hồn Thơ Và Cảm Xúc của
tôi trên Facebook có một bình luận bằng thơ (4 câu) và một đoạn văn của Vân Anh:
Không là dòng chảy
trong mương
Không là sóng cả đại
dương thăng trầm
Người – êm ái mạch
nước ngầm
Chảy trong tôi suốt
tháng năm vụng về.
Cám ơn anh Nhì Phạm.
Bài viết của anh thật
thú vị. Em cũng từng nguệch ngoạc đôi dòng nhưng vẫn chưa thấy dáng dấp thơ
trong đó. Đọc bài viết của anh và ngộ ra khá nhiều lỗ hổng trong những dòng nguệch
ngoạc của mình.
Ý của đoạn thơ là “Chính những nhà bình thơ - đúng ra là
tác phẩm của họ - đã giúp thi sĩ chỉnh sửa những vụng về, bất cập trong sáng tác
thơ cũng như cách nhìn nhận, đánh giá thơ ca của mình”.
Vân Anh đã kín đáo bày tỏ lòng biết ơn đối với những bài
bình thơ mà chị đã nhân cách hóa thành chữ Người một cách trân trọng và quý mến.
Thấy bài thơ hay quá (đoạn thơ sau đó có tên là Mạch Nước
Ngầm) tôi đã viết lời bình với tựa Đóa Hoa Hồng Cho Người Bình Thơ.
Bài Đóa Hoa Hồng Cho Người Bình Thơ được đăng trên
Facebook vào lúc 7 giờ 28 sáng ngày 29 tháng 6 / 2019 (giờ Houston, Mỹ) thì đến
23 giờ 05 (giờ Việt Nam) cùng ngày, đã thấy dưới bài viết ấy, ở dạng bình luận,
bài thơ Nhân Tình Của Những Áng Văn Xanh của Vân Anh.
Bỏ qua 12 tiếng cách biệt giữa Houston và Việt Nam thì từ
lúc đọc bài viết của tôi rồi bắt đầu sáng tác cho đến lúc chị đăng bài thơ chỉ khoảng
hơn 3 tiếng đồng hồ. Tôi nghĩ chị phải ở trạng thái thật cao hứng và xúc động mạnh
mẽ nên mới có thể hoàn tất bài thơ nhanh như thế.
Dưới đây là link dẫn đến khung cảnh ra đời của bài thơ trên
Facebook.
NHÂN TÌNH CỦA NHỮNG ÁNG VĂN XANH
1/
Bầu bạn với văn
chương
em nhẹ lướt đi
bồng bềnh giữa ngút
ngàn câu chữ
nháy mắt cười
với ca dao, ngạn ngữ
nhưng rồi …
chỉ nồng nàn với
riêng anh
2/
Anh trải rộng
những cánh đồng mướt
xanh
em ngửa mặt hít hà
hương lúa mới
anh tuôn chảy dòng
sông diệu vợi
thuyền em trôi
thênh thang
3/
Tình mình lặng thầm
mà chứa chan
em có thể cười vang
khi gặp gỡ
có thể vỗ về
ru êm vào giấcngủ
tha thiết không còn
đủ với đời
em son sắt văn
chương
4/
Câu chữ vấn vương
âm vần lưu luyến
và từ giờ em nguyện
làm nhân tình của
những áng văn xanh.
(VÂN ANH)
Hình Thức Thơ
Nhân Tình Của Những Áng văn Xanh có hình thức của Thơ Mới
biến thể, vần liên tiếp cứ đến hẹn lại lên (16 câu, 7 cặp vần - trừ câu đầu và
câu cuối). Biến thể ở chỗ số chữ trong câu thay đổi tùy hứng khiến nhịp điệu không
tẻ nhạt vì lập đi, lập lại. Và nhờ nhịp điệu thay đổi như thế nên không có hội
chứng nhàm chán vần.
Đây là bài thơ nhất khí, liền mạch – nghĩa là tứ thơ và cảm
xúc chảy thành dòng từ câu đầu đến câu cuối, ngoại trừ những chỗ tác giả tự ngừng
nghỉ để chuyển ý chứ không vì tuân theo quy luật của thể thơ. Với thế trận này,
thơ được coi là viết theo phe Khí Tông – thiên về cảm xúc - để phân biệt với thơ
viết theo phe Kiếm Tông – thiên về cái đẹp của câu chữ, chú trọng ngôn ngữ, hình
tượng và các biện pháp tu từ.
Nếu tác giả phấn khích, cao hứng thì trong bài thơ Khí Tông
cảm xúc nương theo dòng chảy của tứ thơ sẽ tích tụ và lớn mạnh nhanh chóng. Cảm
xúc càng mạnh, lý trí càng yếu. Lý trí bị lấn át đến một mức nào đó cảm xúc tầng
3 sẽ xuất hiện. Khi lý trí bỏ chạy biệt tăm, cảm xúc độc chiếm khung cảnh của bài
thơ, dòng chảy của tứ thơ hóa thân thành dòng cảm xúc, ta có hồn thơ.
Biện Pháp Tu Từ
Bài thơ sử dụng khá nhiều biện pháp tu từ.
1/ Ẩn dụ
a/ “Áng văn
xanh” = bài bình thơ = cánh đồng mướt xanh
b/ Hương lúa mới:
Cái mới trong thơ.
c/ “Tuôn chảy
dòng sông diệu vợi”: Hóa thân thành dòng sông để dẫn đường chỉ hướng đi cho thơ.
d/ “Thuyền
em”: Thơ của tác giả.
2/ Nhân cách hóa: “Áng văn xanh” được chuyển hóa thành
“Anh”, một người được tác giả cảm mến, yêu thích và sau cùng chị đã nguyện mãi
mãi làm nhân tình.
Đây chỉ là những biện pháp tu từ “rõ nét”. Ngoài ra, còn
những câu “bóng gió” ở đoạn 1 và đoạn 3, xin phép được lướt qua để bài viết không
bị “loãng”
Tìm Hiểu, Nhận Biết
Tứ Thơ
Bài thơ được chia làm 4 đoạn, mỗi đoạn 4 câu.
1/
Là thi sĩ, lạc vào chốn văn chương, “bồng bềnh giữa ngút
ngàn câu chữ”, làm quen với nhiều thể loại văn học, nhưng tác giả cảm thấy gần
gũi, thân thiện và yêu thích nhất là những bài bình thơ. Câu:
“nhưng rồi … chỉ nồng
nàn với riêng anh”.
đã diễn đạt rất rõ ràng, dễ hiểu.
Hai chữ “nồng nàn” thật đắt và dễ thương, biểu lộ một sự
quý mến trên mức quen biết xã giao rất nhiều. Tác giả tránh chữ “yêu” nhưng
trong lòng và cách cư xử thì có vẻ như “tình đã trao”. Chữ “rồi” – có giá trị
như một dấu lặng - cho biết đây không phải là sự quý mến vồ vập mà là đã qua tìm
hiểu, trải nghiệm. Thời gian dài hay ngắn, tác giả không cho biết. Nhưng như thế
cũng đủ để độc giả thấy được sự chín chắn của chị.
Chữ “anh” ở cuối đoạn không phải là người đàn ông bằng xương
bằng thịt mà là một thể loại văn học nào đó đã được nhân cách hóa để chị kín đáo
“tỏ tình”. Nếu đọc Tựa Đề rồi để ý đến bối cảnh bài thơ (là bình luận dưới một
bài bình thơ trên FB), độc giả sẽ dễ dàng nhận thấy chị muốn nói đến những bài
bình thơ mà chị thân mến gọi chúng là Những Áng Văn Xanh.
2/
Hai câu đầu:
Bài bình thơ như một cánh đồng mướt xanh để “em ngửa mặt
hít hà hương lúa mới”. Tác giả sử dụng phép ẩn dụ. Thi sĩ nhờ những bài bình thơ
để tiếp cận và thấy được cái mới trong thơ.
Hai câu sau:
Bài bình thơ hóa thân thành dòng sông tuôn chảy thẳng hướng
bến bờ thi ca để thuyền em – nói rõ ra là thơ của em - theo đó mà trôi cho khỏi
quên đường, lạc lối.
Chị đứng ở vị trí của một thi sĩ, nhờ kinh nghiệm làm thơ
cũng như đọc và thẩm thấu hương hoa của những bài bình thơ (hoặc viết về thơ) đã
“ngộ” thêm ra 2 nhiệm vụ của chúng. Đó là 1/ tìm kiếm, xiển dương cái mới trong
thơ và 2/ chỉ đường để thi sĩ hướng thơ của mình đến bến bờ thi ca. (Trước đó
chị đã có Mạch Nước Ngầm).
3/
Tác giả cho rằng tình của chị với những bài bình thơ thầm
lặng mà chứa chan. Gặp được một bài hợp ý thì cười vang thích thú. Những cái
hay, cái đẹp của bài bình thơ như ru chị vào giấc ngủ êm đềm. Do hoàn cảnh không
còn tha thiết yêu đời nên chị đã hết lòng “son sắt văn chương”.
4/
Chính vì làm thơ, yêu thơ nên chị vấn vương câu chữ, lưu
luyến âm vần, và nguyện từ giờ về sau “làm nhân tình” của “ những áng văn xanh”
Tóm tắt tứ thơ:
Là thi sĩ nên trong số rất nhiều thể loại văn học tác giả
nặng tình nhất với những bài bình thơ (hoặc viết về lý thuyết thơ), nhờ đó chị
có thể thấy được cái mới trong thơ, thấy được hướng đi để đưa thơ mình đến bến
bờ thi ca. Tình yêu ngày càng sâu đậm và cuối cùng chị đã nguyện mãi mãi làm nhân
tình của những “Áng Văn Xanh” đó.
Có thể nói bài thơ hơi bị “khó tiêu”. Nhưng khi độc giả đã
“giải mã” hết những biện pháp tu từ và đọc lại vài lần thì theo tôi, bài thơ vừa
lung linh sương khói, vừa lãng mạn và vừa sâu sắc. Chỉ riêng về mặt câu chữ và
thế trận cũng đủ để một người yêu thơ như tôi, tán thưởng và khâm phục.
Tứ Thơ Độc Đáo
Nét độc đáo của bài thơ, theo tôi, là tứ thơ. Cốt tủy của 2 bình luận bằng thơ trong khung cảnh
2 bài viết 1/ Hồn Thơ Và Cảm Xúc và 2/ Đóa Hoa Hồng Cho Người Bình Thơ (PĐN) là
6 câu thơ:
Người – êm ái mạch
nước ngầm
Chảy trong tôi suốt
tháng năm vụng về.
(Mạch Nước Ngầm)
Anh trải rộng những
cánh đồng mướt xanh
em ngửa mặt hít hà
hương lúa mới
anh tuôn chảy dòng
sông diệu vợi
thuyền em trôi thênh
thang.
(Nhân Tình Của Những
Áng Văn Xanh)
Sáu câu thơ này có những đặc điểm:
1/ Về ý nghĩa, đề cập đến 3 nhiệm vụ của công việc bình
thơ.
2/ Ngôn ngữ, hình tượng đẹp, cao sang, ẩn dụ kín kẽ, ý tứ
chính xác, sâu sắc.
3/ Viết về bình thơ bằng thơ. Trao tặng độc giả những kiến
thức cốt yếu về công việc bình thơ bằng phương cách “trái tim đến với trái tim”
để độc giả dễ tiếp nhận hơn.
4/ Không phải bài viết của người hiểu biết về lý thuyết
thơ và làm công việc bình thơ mà là “tâm tình” của người sáng tác thơ, trực tiếp
đón nhận lợi ích của những bài bình thơ. Vì thế, tránh được tính chủ quan, ngự trong
“tháp ngà” thường có của những nhà bình thơ.
Cảm Xúc (Tầng 1 +
Tầng 2)
Cảm xúc tầng 1, đến từ câu chữ, là cảm giác thích thú,
khoái trá của độc giả khi gặp được một chữ hoặc một nhóm chữ “đắt”, một hình tượng
đẹp, mới lạ, lung linh, sống động, câu cú gọn gàng, trong sáng, dễ hiểu. Đặc biệt,
không có những chữ, câu thừa, “vô tích sự”.
Cảm xúc tầng 2 là cảm giác thích thú, khoái trá ở cường độ
mạnh hơn khi thấy thế trận của bài thơ hợp lý, dòng chảy thông thoáng, chuyển tải
nội dung của tứ thơ hiệu quả, không có câu thơ, đoạn thơ “nội gián” ngược dòng
chảy với tứ thơ. Độc giả cũng yêu thích cách dàn trận mới lạ miễn là mới lạ phải
đồng hành với hợp lý và hiệu quả.
Cảm xúc tầng 1 và tầng 2 đến từ câu chữ, thế trận nên được
gọi là cảm xúc nội tại của bài thơ. Nó khác với cảm xúc tầng 3 đến từ trạng thái
cao hứng, nổi điên của thi sĩ – nghĩa là ở ngoài câu chữ.
Khả năng sử dụng câu chữ, thế trận được gọi là kỹ thuật
thơ. Nhiều người “lịch sự” còn gọi là “tài thơ” của tác giả, dù cách gọi này dễ
gây hiểu lầm.
Kỹ thuật thơ của tác giả trong Nhân Tình Của Những Áng Văn
Xanh rất nhuyễn nên bài thơ không có lỗi kỹ thuật. Ngôn ngữ thơ đẹp một cách
sang trọng. Các biện pháp tu từ như ẩn dụ, nhân cách hóa, so sánh nối đuôi sau
xuất hiện nên tứ thơ lung linh, sống động và hấp dẫn. Câu cú vững vàng, chắc nịch,
không sơ hở nên nếu độc giả “giải mã” được, hiểu được ẩn ý của các biện pháp tu
từ thì sẽ đến đúng bến đỗ của tứ thơ không khó lắm.
Lúc ấy, cảm giác thích thú, khoái trá của độc giả ở tầng
1 và tầng 2 rất mạnh.
Cảm Xúc Tầng 3
Đoạn 1
Bầu bạn với văn
chương
em nhẹ lướt đi
bồng bềnh giữa ngút
ngàn câu chữ
nháy mắt cười
với ca dao, ngạn ngữ
nhưng rồi …
chỉ nồng nàn với
riêng anh
Tuy là những câu dẫn độc giả vào khung cảnh của bài thơ
nhưng tác giả viết với thái độ hăm hở, hào hứng để biểu lộ tâm trạng đang nóng
bỏng trong lòng mình nên đọc hết câu thứ tư:
“nhưng rồi …
chỉ nồng nàn với
riêng anh”
độc giả đã cảm thấy hơi ấm của cảm xúc tầng 3 len giữa nhưng
hàng kẻ thấm vào tâm hồn. Chỉ âm ấm nhưng rất rõ nét.
Đoạn 2
Anh trải rộng
những cánh đồng mướt
xanh
em ngửa mặt hít hà
hương lúa mới
anh tuôn chảy dòng
sông diệu vợi
thuyền em trôi
thênh thang
Đây là đoạn chứa cả hồn cốt của bài thơ nên cảm xúc rất mạnh
cả ở trong lẫn bên ngoài dòng chảy của tứ thơ. Cả 4 câu của đoạn này đều thuộc
loại câu “bộc lộ” (Show) nên cảm xúc tầng 3, gặp lúc tác giả đang cao hứng, lại
có trớn từ đoạn 1, dâng cao rất nhanh. Ngôn ngữ thơ cao sang, hình tượng đẹp, nên
thơ, ẩn dụ tương hợp, kín kẽ nên tâm hồn của độc giả như đang bồng bềnh trên “sóng
lúa” và sóng nước.
Đoạn 3
Tình mình lặng thầm
mà chứa chan
em có thể cười vang
khi gặp gỡ
có thể vỗ về
ru êm vào giấcngủ
tha thiết không còn
đủ với đời
em son sắt văn
chương
Câu đầu của đoạn 3 “Tình
mình lặng thầm mà chứa chan” là câu kể (Tell). Ba câu sau chỉ để giải thích,
làm rõ nghĩa hai chữ “chứa chan”. Để
làm việc đó, lý trí phải được gọi về. Với tác giả, để giải thích cho đúng, hợp
lý. Với độc giả, để hiểu và chấp nhận sự giải thích đó.
Riêng câu “tha thiết
không còn đủ với đời, em son sắt văn chương” lại là một câu kể khác. Độc giả
như tôi đã phải bắt lý trí làm việc cật lực – bỏ cả buổi vào trang FB của chị -
để tìm hiểu tại sao chị lại không còn tha thiết yêu đời mà dành hết tâm hồn “son sắt văn chương”. Tôi đã thấy, đã hiểu.
Nhưng đây là vùng đất riêng tư của chị nên không tiện nói thêm.
Đối với tứ thơ thì sự giải thích của đoạn 3 làm mối tình
của chị đối với “những áng văn xanh”, trước mắt độc giả, thêm phần đậm đà, tha
thiết, hỗ trợ mạnh mẽ cho đoạn kết của bài thơ. Nhưng đáng tiếc, chính vì đoạn
thơ này mà cảm xúc tầng 3 đang nóng bỗng nguội hẳn đi.
Đoạn 4
Câu chữ vấn vương
âm vần lưu luyến
và từ giờ em nguyện
làm nhân tình của
những áng văn xanh.
Những câu bộc lộ tâm trạng (Show) tái xuất hiện. Cảm xúc
tầng 3 đã ấm lại.
Đến câu cuối, tứ thơ đã đến đích ở đỉnh điểm (về ý tứ), cảm
xúc của tầng 3 đang nóng lên thì bài thơ đã kết thúc.
Tóm lại, tác giả làm thơ trong lúc tâm hồn phấn chấn, cao
hứng, cảm xúc tầng 3 biểu hiện rõ nét ở 2 đoạn đầu. Tuy nhiên, chưa đủ để hồn
thơ xuất hiện.
Sau đây là mấy lý do:
1/ Đoạn 3 mời gọi lý trí về để nghe phân trần, lý giải. Có
lý trí, cảm xúc - đặc biệt là cảm xúc tầng 3 - tự động xẹp xuống.
2/ Với bài thơ 16 câu, 117 chữ, viết theo lối Khí Tông mà
sử dụng biện pháp tu từ như liệt kê ở trên là hơi dầy. Với việc biểu hiện tứ thơ
thì rất hiệu quả, rất đẹp, rất hay, nhưng chính vì thế đã làm vướng víu dòng chảy
cảm xúc, ảnh hưởng đến sự lớn mạnh của cảm xúc tầng 3.
3/ Đỉnh điểm (điểm nhấn) của tứ thơ ở cuối bài. Đỉnh điểm
của cảm xúc tầng 3 ở cuối đoạn 2. Bài thơ không kết thúc ở cao trào.
Góp Ý Của Một Anh
Bạn
Bài viết gần xong thì một anh bạn yêu văn chương ở xa đến
chơi. Tôi đưa bản thảo cho anh đọc và anh đã góp ý 2 điểm:
1/ Nhóm chữ “và từ giờ”.
Trước hết, xin nhắc lại nhân vật “Anh” chỉ là “những áng
văn xanh” hay “những bài bình thơ”, do “nhân cách hóa” mà có mặt, chứ không phải
một nam tử hán bằng xương bằng thịt.
Ngay ở cuối đoạn 1 và rồi sang cả đoạn 2 tình của Nàng với
“Anh” đã rất sâu đậm:
“nhưng rồi …
chỉ nồng nàn với
riêng anh”
Anh trải rộng
những cánh đồng mướt
xanh
em ngửa mặt hít hà
hương lúa mới
anh tuôn chảy dòng
sông diệu vợi
thuyền em trôi
thênh thang
Tôi nghĩ với ngôn ngữ thơ như thế Nàng đã yêu và cho
“Anh” tất cả, đâu còn giữ lại tý gì. Nhưng đến cuối bài - đỉnh điểm và cũng là điểm
nhấn của tứ thơ – khối tình đó chỉ tăng đến mức:
“và từ giờ em nguyện
làm nhân tình của
những áng văn xanh”
nghĩa là chỉ cho “Anh” thêm chút danh hão chứ có gì khác đâu? Như vậy độ gia tăng tình cảm của Nàng với
“Anh” từ lúc đầu cho đến cuối bài không đáng kể. Nếu vẽ đường biểu diễn thì đó
chỉ là một đường thẳng gần như nằm ngang, chỉ hơi chếch lên một tý ở đoạn cuối.
Tôi cho đó là điểm yếu quan trọng của bài thơ.
Anh bạn tôi đứng về phía tác giả, giải thích và biện hộ
như sau:
Ở phần đầu bài thơ, dù thái độ của Nàng đã “nồng nàn với
riêng Anh”, rồi trong cả đoạn 2 đã say sưa, mê mẩn cùng Anh trong “những cánh đồng
mướt xanh” và “dòng sông diệu vợi”, nhưng khi đã “nguyện” làm nhân tình của Anh
thì lời nguyện đó đã đưa tình bước lên một tầng bậc mới, cao hơn trước nhiều. Hơn
nữa, nhóm chữ “và từ giờ” đã hứa hẹn một tương lai lâu dài, mãi mãi, suốt đời.
Khi nữ ca sĩ nào đó hát câu “Em hứa yêu anh trọn một đời”
(1) khán thính giả sẽ mường tượng một mối tình đằm thắm, lâu dài, mãi mãi. Hai
câu thơ
“và từ giờ em nguyện
làm nhân tình của
những áng văn xanh
còn nặng tình hơn câu hát đó nữa. Lý do: Chữ “nguyện” còn
mạnh hơn chữ “hứa” một bậc.
Như vậy, có thể nói độ gia tăng của khối tình của Nàng với
“Anh” từ đầu bài thơ đến hai câu kết là rất đáng kể. Anh đề nghị:
“Nếu không khen thì
cũng đừng nên đưa vào những lời ‘khó nghe’ kẻo lại bị ‘búa rìu dư luận’. Mà chỗ
này người ta ‘búa’ thì khó đỡ”.
Quả thật, tôi thấy sức mạnh của chữ “nguyện” nhưng lại
“quên” nhóm chữ “và từ giờ” nên đã trách oan tác giả.
“Nói phải thì củ cải cũng phải nghe”. Tôi đã nghe và đã sửa.
Cám ơn anh bạn.
2/ Về đoạn 3 của bài thơ
Anh bạn tôi cho rằng tác giả viết bài thơ là để bày tỏ mối
tình thắm thiết của Nàng đối với “những áng văn xanh”. Và theo anh, “đoạn 3 đã
hỗ trợ đắc lực cho công việc đó; có công lớn như vậy mà còn bị ‘bắt lỗi’ là không
đúng”.
Tôi biết chỗ dựa để anh và tôi nhận xét, đánh giá một bài
thơ, một đoạn thơ, một câu thơ hay hoặc không hay, khác nhau. Anh dựa vào sự hiệu
quả trong việc giúp biểu hiện tứ thơ. Tôi, ngoài điểm đó, còn nhìn theo hướng đi
của bài thơ đến bến bờ thi ca.
Đối với những bài thơ tác giả chọn chữ so vần trong lúc
“tỉnh như sáo” thì không nói làm gì. Với những bài ấy thì mọi đôi mắt phải nhìn
chăm chú vào tứ thơ là đúng. Nhưng với những bài thơ có xuất hiện cảm xúc tầng
3 thì phải theo dõi dòng chảy cảm xúc, xem nó có thông thoáng để cảm xúc tầng 3
lớn mạnh hay không? Có cơ hội để có hồn thơ hay không?
Tôi biết, về mặt ý tứ, đoạn 3 của NTCNAVX là một đoạn thơ
hay. Nhưng về mặt khơi dòng để cảm xúc tầng 3 tuôn chảy thì nó lại là điểm tụ hội
của lý trí, là vật cản. Chính nó làm mất cơ hội để hình thành hồn thơ.
Ưu Điểm Của Bài
Thơ
a/ Vẫn dựa vào
khung Thơ Mới nhưng số chữ trong câu thay đổi tùy hứng với biên độ rộng – câu
ngắn nhất 5 chữ, câu dài nhất 12 chữ, nhịp điệu thay đổi, không lập đi lập lại,
tính nhạc cao.
b/ Vần liên tiếp
đều đặn, 16 câu, 7 cặp vần, nhưng do tính nhạc cao nên vẫn vừa độ ngọt, không có
hội chứng nhàm chán vần.
c/ Ngôn ngữ
cao sang, chắt lọc, hình tượng đẹp, gợi cảm.
d/ Bài thơ nhất
khí liền mạch, tứ thơ và cảm xúc chảy thành dòng.
e/ Tứ thơ tuyệt
vời.
f/ Cảm xúc tầng
1 và tầng 2 mạnh.
g/ Có cảm xúc
tầng 3 khá “nóng” ở cuối đoạn 2, nhưng nguội dần từ đầu đoạn 3.
Khuyết Điểm
Có cảm xúc tầng 3 nhưng chưa đủ mạnh để tạo hồn thơ. (Đã
giải thích ở mục Cảm Xúc Tầng 3)
Kết Luận
Ba nhiệm vụ của nhà bình thơ trong Mạch Nước Ngầm và Nhân
Tình Của Những Áng Văn Xanh của Vân Anh đâu đó đã có người nhắc đến, bàn đến.
Chị không phải là người đầu tiên nghĩ ra những ý tưởng đầy tính học thuật ấy.
Nhưng với tâm thế của người thọ nhận, gói chúng vào 2 bài thơ, nén chúng vào 6
câu thơ vừa cô đọng, đẹp, sâu sắc, lại vừa lãng mạn, thấm đẫm chất tình như chị,
thì theo tôi, xưa nay chỉ có một.
Chị đã tặng cho người yêu thơ một món quà ý nghĩa. Riêng
đối với những người bình thơ như chúng tôi, trước sau, chị đã trao tận tay 3 đóa
hoa hồng. Một, từ Mạch Nước Ngầm và hai, từ Nhân Tình Của Những Áng Văn Xanh.
Mai mốt đây, bàn đến đề tài bình thơ, những nhà phê bình,
đặc biệt là giới trẻ, để trích dẫn, khỏi phải tìm tòi lượm lặt mỗi nơi một đoạn
văn xuôi khô cứng. Trước mắt họ, những đóa hoa của Vân Anh sẽ hiện ra mời gọi.
Mềm mại, dễ thương – và vẫn như ngày đầu – nguyên vẹn một màu hồng tươi thắm.
Phạm Đức Nhì
CHÚ THÍCH
1/ Một Đời Yêu Anh (Em), Trần Thiện Thanh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét