NHỮNG NHÀ BÁO - NHÀ THƠ NỔI TIẾNG
QUÊ HƯƠNG NÚI TẢN SÔNG ĐÀ
NGUYỄN THỊ THIỆN
Trong nền báo chí và thơ ca Việt Nam, vùng đất trầm tích giàu huyền thoại Xứ Đoài, thủ phủ là tỉnh Sơn Tây cũ, nổi lên nhiều gương mặt đặc biệt sáng giá. Những nhà báo - nhà thơ quê hương núi Tản sông Đà đã, đang góp phần không nhỏ vào sự đổi mới và phát triển văn học nước nhà, đặc biệt là thơ ca. Tiêu biểu nhất trong số đó là các danh nhân: Tản Đà, Quang Dũng, Ngô Quân Miện, Bằng Việt, Nguyễn Việt Chiến, Trần Hòa Bình…
- Tản Đà (1889 -1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây - nay là Ba Vì, Hà Nội. Ông xuất thân từ gia đình dòng dõi quyền quý và khoa bảng, nhiều đời làm quan dưới triều Lê. Mẹ Tản Đà là bà Vũ Thị Hiền, người đàn bà đẹp, hát hay nổi tiếng
cả thành phố Nam Định. Năm Tản Đà 3 tuổi, cha ông là Nguyễn Danh Kế - cử nhân, làm tri phủ huyện Xuân Trường thời vua Tự Đức - mất. Tản Đà được người anh trai cùng cha khác mẹ là Nguyễn Tái Tích - đỗ phó bảng, làm quan triều Nguyễn - nuôi ăn học. Khi mới 15 tuổi, Tản Đà nổi tiếng là thần đồng vì học giỏi và thông minh. Tuy đã dành phần lớn thời gian và công sức cho việc học và thi cử nhưng tính tình phóng khoáng và tâm hồn mơ mộng, ông thi trượt nhiều lần. Năm 1915 ông lấy bà Nguyễn Thị Tùng là con gái ông Nguyễn Mạnh Hương, trở thành anh em cọc chèo với nhà văn Phan Khôi.
Bậc đàn anh của nghề báo: Từ năm 1916 ông chuyển sang làm báo, viết văn, làm thơ. Bởi ông sinh ở nơi “Nước rợn sông Đà con cá nhảy/ Mây trùm non Tản cái diều bay” nên lấy bút danh Tản Đà. Nghề làm báo thời nào cũng khó, dưới thời đất nước mất chủ quyền lại càng khó hơn. Vượt qua tất cả những trở ngại, Tản Đà trở thành chủ bút Tạp chí Hữu Thanh. Tờ tạp chí là cơ quan của Hội Bắc kỳ Công thương, ra số đầu 1/8/1921, được các vị tiền bối như Phan Bội Châu, Bạch Thái Bưởi góp ý, góp sức,
trở thành vũ khí lợi hại phục vụ quốc kế dân sinh. Đến 1926, Tản Đà ra tờ tạp chí riêng tên là An Nam tạp chí (năm 1927) và thường xuyên giữ vị trí cây bút chủ lực của báo. Duy trì và phát triển một tờ báo có biết bao thách thức. Khi quá khó khăn, báo phải tạm đình bản. Sau được sự trợ giúp của nhà văn Ngô Tất Tố, Tản Đà lại có những cách quảng bá rất thu hút, An Nam tạp chí lại phát triển tuần một số và tồn tại đến năm 1933. Bên cạnh vai trò như Tổng biên tập hai tờ báo trên, ông còn cộng tác với những báo khác như: Đông Pháp thời báo, Ngày nay, Văn học tạp chí… Nhiều học giả đương thời trân quý, cảm phục tôn vinh, ca ngợi Tản Đà là bậc đàn anh của nghề báo.
Ngôi chủ súy của Tao đàn Những người yêu văn chương vẫn luôn ghi nhận, ngưỡng mộ Tản Đà đặc biệt về thơ ca. Ông được đánh giá là thi sĩ có vai trò khai nền đặt móng cho sự phát triển của trào lưu Thơ mới. Trong khoảng những năm 1920 - 1930, Tản Đà là ngôi sao sáng nhất trong bầu trời thơ Việt. Hiếm có thi sĩ nào được như Tản Đà khi thơ ông ở đâu cũng được bạn đọc đương thời yêu mến, ca ngợi bởi sự độc đáo, sáng tạo, đặc biệt là niềm khát khao hướng tới cuộc sống thoát tục, hướng tới cuộc sống tự do, hạnh phúc chốn thần tiên. Ông viết nhiều thể loại thơ, thể loại nào cũng thành công với nội dung đa dạng, đậm cá tính và phong cách riêng. Những tác phẩm chính của ông: Khối tình con I (1916), Khối tình con II (1916), Tản Đà xuân sắc (1918), Còn chơi (1921), Thơ Tản Đà (1925), Khối tình con III (1932). Những bài thơ của ông được nhiều người yêu thích nhất và thuộc nằm lòng, được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn bậc Trung học phổ thông liên tục trong nhiều năm qua và cả hiện nay như: Thề non nước, Muốn làm thằng Cuội.
Nhà văn hóa lớn Nguyễn Tuân đánh giá: “Trong chốn Tao Đàn, Tản Đà xứng đáng ngôi chủ súy, Trong Hội Tài tình, Tản Đà xứng đáng ngôi hội chủ mà làng văn, làng báo xứ này, ai dám ngồi chung chiếu với
Tản Đà?” Còn Xuân Diệu, nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới (Hoài Thanh) cho rằng: “Tản Đà là thi
sĩ đầu tiên mở đường cho thơ hiện đại; là người thứ nhất có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách
đường hoàng, bạo dạn, dám giữ một bản ngã, dám giữ một cái tôi”.
Ngoài viết báo, làm thơ, Tản Đà còn là một dịch giả thơ Đường rất nổi tiếng. Đến nay, rất nhiều người đã dịch thơ Đường nhưng nhiều bài trong số hàng trăm bài thơ do Tản Đà dịch vẫn được coi là hay nhất như bài: Hoàng Hạc Lâu (Thôi Hiệu), Trường hận ca (Bạch Cư Dị). Khi Tản Đà quy tiên, Ngô Đức Kế đã viếng ông đôi câu đối: Tản Sơn hùng vĩ danh thiên cổ/ Đà thủy trường lưu đức vạn niên.
- Quang Dũng (1921 - 1988), tên khai sinh
là Bùi Đình Diệm, Quê Phượng Trì, Đan Phượng,
Hà Nội). Thời niên thiếu và mới lớn, học ở trường Thăng Long. Sau tốt nghiệp, làm thầy giáo dạy học tư ở Sơn Tây.
Phóng viên mặt trận, biên tập viên: Ông tham gia vào Quân đội Nhân dân Việt Nam trở thành phóng viên của tờ báo Chiến đấu. Năm 1947, ông được cơ quan cử đi học bổ túc tại Trường Trung cấp quân sự ở Sơn Tây. Hoàn thành khóa học, làm Đại đội trưởng tại tiểu đoàn 212, Trung đoàn 52 Tây Tiến. Một thời gian sau, Quang Dũng tham gia chiến dịch Tây Tiến đợt hai và được cử làm Phó đoàn Tuyên truyền Lào - Việt. Cuối năm 1948, ông giữ chức vụ Trưởng tiểu ban Tuyên huấn của Trung đoàn 52 Tây Tiến, sau đó được bầu làm Trưởng đoàn Văn nghệ Liên khu III. Thời gian này ông tập trung vào nghiệp viết. Ngoài sáng tác nhiều truyện ngắn, kịch, viết nhạc, ông còn tham gia vào triển lãm tranh sơn dầu cùng với các hoạ sĩ nổi danh khác. Tháng 8 năm 1951, ông xuất ngũ và tiếp tục công tác trong ngành văn nghệ. Từ sau năm 1954, ông làm biên tập viên của báo Văn nghệ và sau chuyển công tác và trở thành biên tập viên của Nhà xuất bản Văn học.
Tạc nên bằng thơ tượng đài người lính Tây Tiến bất hủ. Bài thơ “Tây Tiến” (1948) của Quang Dũng là một đỉnh cao chói lọi của thơ ca viết về người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Trên bối cảnh Tây Bắc hùng vĩ đó, chân dung người lính Tây Tiến dần hiện ra với vẻ đẹp rất mực hào hoa giữa môi trường chiến đấu khắc nghiệt. Xuất thân là những chàng trai sinh viên trí thức Hà Nội, các chiến sĩ nhìn đời bằng con mắt mơ mộng, tinh thần lạc quan trong tình yêu
và trong cách sống. Những người lính ấy có tình thương nồng nàn với đồng bào dân tộc. Những chàng trai thành thị thật vui khi được chiêm ngưỡng những cô gái Lào duyên dáng thướt tha: “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa/ Kìa em xiêm áo tự bao giờ/ Khèn lên man điệu nàng e ấp/ Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”. Tâm hồn người lính giàu mơ mộng vẫn đắm say trong nhung nhớ những ngày tháng gắn bó với con người và miền đất biên giới nơi đây. Tình yêu đất nước, con người ấy chính là cội nguồn sức mạnh để các anh chiến đấu, sẵn sàng quyết tử cho Tổ quốc: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ/ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh/ Áo bào thay chiếu, anh về đất/ Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Vẻ đẹp bi thương nhưng tráng lệ, hào hùng của người lính Tây Tiến được soi sáng bởi lí tưởng đấu tranh vì độc lập tự do Tổ quốc của lớp thanh niên thời kì kháng chiến chống Pháp. Với kiệt tác này, Quang Dũng đã góp vào kho tàng thơ ca Việt Nam một tượng đài lồng lộng và bi tráng về người lính xuất thân là những người thanh niên trí thức hào hoa dũng cảm, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì Tổ quốc. Bài thơ được ghi nhận là kiệt tác của thơ ca Việt Nam hiện đại bởi tính độc đáo về nội dung và bút pháp tài hoa vừa hiện thực vừa lãng mạn của thi sĩ không thể trộn lẫn trong thơ ca cách mạng nước ta. Thi phẩm khiến ta cảm phục, tự hào và biết ơn sâu sắc những người lính Tây Tiến nói riêng, người chiến sĩ nói chung đã không tiếc máu xương để Tổ quốc được độc lập, nhân dân được sống tự do yên bình hạnh phúc.
- Ngô Quân Miện
Ngô Quân Miện (1925 - 2008) vừa là nhà báo, vừa nhà thơ đồng thời là dịch giả. Ông sinh tại làng Khê Thượng, xã Sơn Đà, huyện Ba Vì, ngoại thành Hà Nội, cùng xóm với Tản Đà. Cha ông là cụ đồ nho từng dự khoa thi hương cuối cùng. Ông có người nhà học trường Bưởi nên thường mượn sách về tự học.
Tổng biên tập báo Độc lập: Từ nhỏ Ngô Quân Miện đã là người sáng dạ, có năng khiếu văn chương. Ông có thơ và truyện được đăng báo từ khi mới 14 tuổi - năm 1939 - trên tờ báo Tin mới với những sáng tác viết về đề tài thiếu nhi. Trước Cách mạng tháng 8/1945, Ngô Quân Miện học trường Trung học Canh nông, từng làm cán bộ kỹ thuật của Sở Canh nông Bắc kỳ. Đến sau hòa bình 1954, ông học tại chức khoa Ngữ văn, làm báo, viết văn. Ông sớm lên Việt Bắc, tham gia kháng chiến chống Pháp. Ông viết báo, làm thơ, năm 1951 chuyển sang làm biên tập ở báo Độc lập, sau làm Tổng biên tập của tờ báo này. Ông được bầu làm ủy viên BCH Hội Nhà báo Việt Nam khóa IV.
Hồn thơ đôn hậu mà tinh tế: vào Hội Nhà văn Việt Nam năm 1979, ông được giới văn chương ở Hà Nội ghi nhận mối tình tri kỷ “bộ ba nhà thơ” giữa Ngô Quân Miện - Trần Lê Văn - Quang Dũng với tình cảm gắn bó sâu đậm. Ông là nhà thơ có tâm hồn đôn hậu, chân chất, bản tính hiền lành, khiêm nhường nhưng lại có khả năng phát hiện, nắm bắt được vẻ đẹp mong manh, tinh tế trong
cuộc sống. Ông sáng tác hai mảng thơ chính: thơ viết cho thiếu nhi và thơ trữ tình. Tác phẩm thơ
tiêu biểu như: Bay chuyền (thơ thiếu nhi - 1976), “Hoa đồng” (1978); Bông hoa cỏ, mặt gương soi (in chung, 1981), Đất ngọn nguồn (in chung 1982), Bóng núi (1993)… Ông được nhận không ít giải thưởng, tiêu biểu là: Giải Ba thơ tạp chí Văn nghệ (1960 - 1961); Giải Ba văn học viết cho thiếu nhi với tập Chú bé nhặt bông gạo (1994). Ông đã có thơ được chọn
đăng trong sách tiếng Việt của bậc tiểu học: “Ngôi trường mới”. Bên cạnh sáng tác, ông còn dịch sách. Ông đã dành tặng cuộc đời hơn 20 đầu sách văn thơ và dịch.
Bài thơ ”Mùa hoa loa kèn” của ông thuộc mảng thơ trữ tình là sáng tác được nhiều bạn đọc yêu thích bởi hình ảnh thơ trong bài dung dị nhưng rất ấn tượng. Từ quan sát cô gái bán hoa loa kèn, thi sĩ tái hiện sinh động sự tương đồng giữa bàn tay em và cành hoa đều cùng mềm mại và trắng muốt. Phép đảo ngữ trong câu thơ nhấn mạnh vẻ đẹp đáng yêu của tay em, cô gái đang cầm trên tay những bông hoa loa kèn tao nhã, thanh khiết. Mỏng manh vậy nhưng sứ mệnh của hoa thật chẳng tầm thường “Một cành hoa nối mùa xuân - mùa hè”. Thơ Ngô Quân Miện không hoa mỹ, tứ thơ dung dị nhưng tình người cứ ngân nga. Bài thơ nói về hoa nhưng lại như là lời bày tỏ tình yêu tế nhị. Từ vẻ đẹp trong trắng, tinh khôi của hoa loa kèn, nhà thơ đã truyền đến người đọc tình yêu thiên nhiên, tình yêu cuộc sống.
- Bằng Việt tên khai sinh là Nguyễn Việt Bằng, sinh năm 1941 quê xã Chàng Sơn, Thạch Thất, Hà Nội. Ông vừa là nhà báo kỳ cựu vừa là một nhà thơ lớn.
Nhà báo sáng lập tờ Người Hà Nội. Từng tốt nghiệp khoa Pháp lý , Đại học Tổng hợp Kiev, Liên Xô năm 1965, Bằng Việt về nước, công tác tại Viện Luật học thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam. Đến 1969, chuyển về công tác tại Hội Nhà văn Việt Nam.Năm 1970, ông vào công tác tại chiến trường Bình Trị Thiên với tư cách là phóng viên mặt trận. Nhiều sáng tác của ông ra đời ở thời kỳ này mang đậm hơi thở của cuộc sống, Khi về, ông chuyển công tác tại Nhà xuất bản Tác phẩm mới. Ông được bầu làm Tổng thư ký Hội Văn học nghệ thuật Hà Nội (1983 - 1989), là một trong những người sáng lập tờ báo văn nghệ Người Hà Nội (xuất bản từ 1985), nay là Tạp chí Người Hà Nội.
Nhà thơ tài danh với phong cách riêng
Bằng Việt rất thích đọc sách văn học, có năng khiếu văn chương, sáng tác thơ sớm, thơ được đăng báo từ năm 13 tuổi. Thơ Bằng Việt mang lại cho người đọc những cảm xúc khó quên bởi nội dung đa dạng, chứa đựng sâu sắc cảm hứng về tình yêu, đất nước, con người cả trong chiến tranh và thời bình. Cảm xúc thơ ông thường hướng về những kỷ niệm thời ấu thơ và tuổi trẻ, khơi gợi những mơ ước, khát vọng cao đẹp. Thơ Bằng Việt có giọng điệu vừa trữ tình sâu lắng vừa suy tư, triết lý. Nhà thơ có những sáng tạo và đóng góp đáng kể trong việc phát triển thể thơ tự do, xây dựng ngôn ngữ thơ hiện đại bình dị nhưng giàu chất tự sự, gần gũi với người đọc. Ngôn ngữ thơ ông giàu hình ảnh, không hoa mỹ, cầu kỳ, được chắt lọc từ thực tế đời sống, vận dụng khéo léo các biện pháp tu từ. Sự liên tưởng, so sánh trong thơ Bằng Việt thể hiện hài hòa giữa truyền thống và hiện đại. Tác phẩm thơ tiêu biểu: Hương cây - Bếp lửa (in chung 1968) có bài thơ “Bếp lửa” được giảng dạy trong nhà trường phổ thông bậc Trung học cơ sở. Những gương mặt, những khoảng trời (1973), Đất sau mưa (1977). Khoảng cách giữa lời (1983)... Bài “Nghĩ về Pau top xki” được các bạn trẻ rất yêu thích, một thời đua nhau chép trong sổ tay. Bài thơ “Mẹ”, viết về những kỷ niệm ân tình sâu nặng của người chiến sĩ trực tiếp chiến đấu ngoài mặt trận chẳng may bị thương, được người mẹ ở hậu cứ nuôi dưỡng yêu thương, chăm sóc tận tình như con đẻ… Ông đoạt giải Nhất về thơ của Hội Văn học nghệ thuật Hà Nội (1968), Giải thưởng Nhà nước về Văn học năm 2011.
Ngoài sáng tác, Bằng Việt còn viết phê bình văn học với những bài viết sắc sảo và đầy ắp thông tin, tư liệu. Bên cạnh đó, ông còn là dịch giả rất uy tín tác phẩm của nhiều nhà thơ nước ngoài sang tiếng Việt, nhiều nhất là thơ Nga. Ông là nhịp cầu nối hai nền văn hóa Nga - Việt.
- 5. Nguyễn Việt Chiếnsinh năm 1952, quê Chàng Sơn, Thạch Thất, Hà Nội; vào bộ đội từ
năm 1970, xuất ngũ năm 1974 rồi đi học và tốt nghiệp đại học ngành địa chất.
“Làm báo, tôi vắt kiệt mình cho bạn đọc”
Năm 1990, anh chuyển sang viết báo. Năm 1991, về công tác ở báo Văn Nghệ, đến năm 1992 làm phóng viên tại báo Thanh Niên. Anh từng tâm sự “làm phóng sự điều tra, thường phải chạy theo sự cạnh tranh ghê gớm giữa các báo. Cả ngày xả thân vì báo chí, đêm đến lại trở về với thi ca. Làm báo chí, tôi vắt kiệt mình cho bạn đọc. Khi trở lại thi ca, đó mới là đời sống đích thực của con người sáng tạo trong tôi. Dù thực ra, vừa làm thơ vừa làm báo cũng có cái đặc biệt. Có nhiều phát hiện của báo chí, thông qua năng lực của nhà thơ mà mềm mại hoá, trở thành tác phẩm…” Nhờ đó, bạn đọc thích những bài báo của anh bởi nó không hề khô khan mà dạt dào xúc cảm. Không chỉ là nhà báo xông xáo, Nguyễn Việt Chiến còn là tác giả của những phóng sự điều tra sắc sảo, nóng hổi tính thời sự. Không những thế, anh còn làm thơ, viết phê bình tiểu luận và chân dung văn học, thể loại nào cũng thành công rất đáng ghi nhận.
“Thi ca đã cứu rỗi đời tôi”
Trong số các nhà thơ Việt Nam hiện đại, không ai cá tính như Nguyễn Việt Chiến. Không may gặp tai nạn nghề nghiệp, anh rơi vào vòng lao lý nhưng người thơ ấy không hề bi quan và buông bút.Sau tám tháng được trở về với cuộc sống đời thường, anh còn viết khỏe, cảm xúc phóng khoáng, mức độ da diết và có độ khái quát sâu rộng hơn trước. Anh cho rằng: Theo tôi, với những người viết chuyên nghiệp, họ đặt nghề nghiệp lên trên hết, trong bất kì hoàn cảnh nào người ta cũng sẽ vẫn sáng tác. Thi ca đã cứu rỗi đời tôi. Không có thơ thì giai đoạn ấy tôi khó mà tồn tại.
Những tác phẩm tiêu biểu như: Mưa lúc không giờ (Thơ, Nhà xuất bản Hội nhà văn năm, 1992), Ngọn sóng thời gian (Thơ, Nhà xuất bản Thanh Niên, 1998), Cỏ trên đất (Thơ, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, 2000) Những con ngựa đêm (Thơ, Nhà xuất bản Hội nhà văn năm 2003, “Thơ Việt Nam tìm tòi và cách tân 1975 - 2005” (Phê bình và tiểu luận, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2007).
Bài thơ “Tổ Quốc nhìn từ biển” của ông là tiếng nói tràn đầy tình cảm yêu mến, tự hào về đất nước. Nhà thơ đau đáu trở trăn trước những hiểm nguy biển đảo quê hương bị xâm chiếm và tiếp tục bị rình rập. Thi phẩm là tiếng lòng tri ân sâu nặng với đồng đội, những người con ưu tú của dân tộc dũng cảm chiến đấu hy sinh quên mình vì Tổ quốc và tỏ rõ niềm tin vững chắc ở tương lai. Với vốn sống phong phú, tầm nhìn khái quát và sâu sắc nền văn hoá - lịch sử dân tộc, nhà thơ đã tái hiện hình tượng Tổ quốc thật mới mẻ và đa chiều. Lần đầu xuất hiện trên báo Thanh niên 2009, bài thơ lập tức trở thành một hiện tượng nóng trong làng thơ, được chia sẻ rộng rãi, nhận được sự cộng hưởng và yêu quý của hàng triệu bạn đọc. Một số đoạn của bài về sau được trích dẫn làm đề thi trong các nhà trường để giáo viên và học sinh luyện thi Tốt nghiệp phổ thông và thi đại học. Vui hơn nữa, thi phẩm đã được nhạc sĩ Phạm Minh Thuận chắp thêm đôi cánh âm nhạc, tên ca khúc cũng trùng tên của bài thơ càng có sức lan tỏa rộng rãi.
Với những đóng góp xuất sắc, nhà thơ Nguyễn Việt Chiến xứng đáng được tặng: Giải Nhì Cuộc thi thơ báo Văn Nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam (1989-1990); Giải Nhì cuộc thi Thơ hay về biển của Vũng Tàu (1992); Giải Nhì cuộc thi Thơ Tạp chí Văn nghệ 1998 - 1999; Giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội (2004) và Hội Nhà văn Việt Nam (2004). Hiện nhà thơ là Phó chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội và hoạt động rất tích cực.
- Trần Hòa Bình (1956 - 2008) quê Ba Vì - Hà Nội, nguyên là giảng viên khoa báo chí Học viện Báo chí tuyên truyền, bên cạnh là một nhà báo uy tín, anh còn là một nhà thơ. Với bút danh Tầm Thư, Tiến sĩ giấy, Trần Hòa Bình là chuyên gia gỡ rối tơ lòng cho bạn đọc trẻ trên báo tờ Tiền Phong và giải đáp tâm tư cho các cặp vợ chồng trẻ trên Tạp chí Gia đình suốt 20 năm. Với nhiều sáng tác thơ được bạn đọc yêu thích, truyền cho nhau và nhiều người thuộc nằm lòng, Trần Hòa bình tuy chưa xuất bản một tập thơ nào nhưng nhiều người trong giới văn chương và bạn đọc đã tôn vinh Trần Hòa Bình là nhà thơ đích thực. Tại sao lại như vậy?
Căn cứ vào những bài thơ đã viết, ông xứng đáng được như vậy; nhưng không rõ lý do vì sao, ông chưa kịp in cho mình một tập thơ riêng. Trong thực tế, ông có hàng trăm bài thơ còn nằm lặng lẽ trong dạng bản thảo, một số trong đó nằm trong trái tim và ký ức của bạn đọc yêu thơ: Thêm một,
Bài hát ru hoa sen, Khau Vai, Mai em về nhà chồng… Riêng Thêm một là bài thơ được nhiều người yêu thích và thuộc nằm lòng. Đọc thơ sẽ thấy người, biết người. Cuộc sống quanh ta, có những cái thêm do ý muốn chủ quan, lại có cái thêm do khách quan đưa tới nên thêm một có khi đem lại nhiều điều hay nhưng ngược lại thêm một cũng kéo theo không ít phiền toái. Có phải vậy chăng mà thi nhân đã sớm trở về với miền mây trắng quê hương, để lại bao thương tiếc, nhớ nhung cho người ở lại...
Xứ Đoài với khí thiêng hội tụ, non nước hữu tình đã sản sinh và nuôi dưỡng nên những tài năng báo chí và thơ ca hay chính những gương mặt thi nhân ấy làm rạng danh quê hương xứ Đoài? Tản Đà, Quang Dũng, Ngô Quân Miện, Trần Hòa Bình đã đi xa nhưng những tác phẩm và nhân cách các thi nhân ấy để lại cho đời thật đáng ngưỡng mộ. Lớp người hôm nay đang đi tiếp con đường các vị tiên hiền đã đi. Ngoài nhà thơ Bằng Việt, Nguyễn Việt Chiến đã nói ở trên còn có Khuất Quang Thụy, Nguyễn Bắc Sơn, Phan Quế, Vương Tâm. Trong đó, ba nhà văn đã được nhận Giải thưởng Nhà Nước
về Văn học Nghệ thuật là: Bằng Việt, Khuất Quang Thụy và Nguyễn Bắc Sơn. Lớp hậu sinh thế hệ
sau còn có Phí Quốc Thuyên (Phó Tổng biên tập báo Phụ nữ Việt Nam), Liêu Chí Trung (Phó Tổng biên tập Tạp chí Luật sư Việt Nam) và nhiều người khác nữa… Tin rằng nguồn mạch văn chương Xứ Đoài sẽ còn dào dạt chảy mãi góp phần giữ gìn
bản sắc quê hương, làm giàu thêm nền văn hóa nước nhà.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét