Thứ Sáu, 31 tháng 1, 2025

PHẠM CÔNG TRỨ - Chùm “PHỒN”

 

PHẠM CÔNG TRỨ - Chùm “PHỒN” 

pham_cong_tru

Chùm “PHỒN”

 

“Phồn” là một mạch khác, khá nặng, sau mạch “Cỏ”.
Là một từ gốc Hán, “Phồn” có nghĩa là nhiều, là sinh sôi, nảy nở. Phồn kết hợp với nhiều từ khác thành phồn vinh, phồn hoa, phồn tạp, phồn tục… Trong số đông đảo họ nhà phồn thì “phồn thực” gây ấn tượng mạnh hơn cả, còn “phồn sinh” là nhân văn nhất. Chẳng thế mà hắn đã từng có lúc ngẫu hứng theo vần “Phồn hoa, phồn thực, phồn thi/ Bao nhiêu phồn ấy có vì phồn sinh?”. Song, hai chữ “phồn thi” là sự sáng tạo của riêng hắn, hắn giữ bản quyền. Đó là sự vần hóa, thi hóa, thăng hoa, cộng hưởng các loại  “phồn” nói trên:

Phồn I ắt có phồn II

Thêm phồn III nữa cho dài mạch thi

…Hiện đại phải lòng dân gian

Thơ ca mạch ấy đều mang họ “Phồn”!

Đều mang họ “Phồn”, tức là có ít nhiều sexy theo ngôn ngữ phương Tây, hay “cái vần ồn” như cách nói suồng sã của người quê, cứ thích “quy ra thóc”. Phồn thực vốn được xem như là tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp xa xưa, sống bằng trồng cấy, gieo vãi. Tại một số đền đài, vật được thờ cúng, chiêm bái là những sinh thực khí -  “linh khí”, có vai trò tối quan trọng là “truyền giống” , thuộc về bản năng tính giao của muôn loài hữu sinh. Linga và yoni ở các tháp Chăm hiện tồn là “trực quan sinh động” cho cái gọi tín ngưỡng, hay văn hóa phồn thực được tôn lên làm linh vật.

Người quê không thạo lý luận lôi nhôi, nhưng lại khá táo bạo trong chuyện tính giao, phồn thực, vốn có họ hàng gần với cái “dâm”, họ hàng xa với cái “tục”, song không nhiều dây mơ rễ má với cái “bậy”.“Ai dám bảo chữ dâm là bậy/ Không có dâm sao lại nẩy ra hiền” “Dâm” ở đây có thể hiểu là bản năng truyền giống, tự nhiên như nhiên, nó không “bậy” một chút nào. Theo nghĩa này, phồn còn như là thuộc tính cố hữu của tự nhiên, khi có âm dương, đực cái “Có âm dương có vợ chồng/ Dẫu rằng thiên địa cũng vòng phu thê” (Nguyễn Gia Thiều). Không có nó thì không có nhân loại, không có hắn đang ngồi bình tán về chữ  “Phồn” hôm nay.

“Hiền” ở đây là… thánh hiền, hiền giả, hay người hiền nói chung, theo đạo “quân tử” xưa thường kỵ húy với những gì gọi là dâm, tục. Ầy vậy mà dưới mắt nữ sĩ họ Hồ, đứng trước “đôi gò bồng đảo”, “một lạch đào nguyên” thì “Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt...”. Còn cái “chành ra ba góc” đủ cho đấng mày râu che lên đầu lúc ông trời bỗng nhiên đổ mưa để thử lòng quân tử. Đâu chỉ mình “bà chúa thơ Nôm”, trong thơ của các nhà nho tài tử Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Đà… đây đó cũng bắt gặp những câu, những đoạn chẳng thể gọi gì khác là dâm pha tục (!).

Tôn giáo thuộc phạm trù cái “thiêng”, cái cao cả nên rất kỵ cái “phàm”, cái trần tục. Đây chính là mảnh đất màu mỡ để các thánh tích, bí tích, thần phả các loại ra đời. Chúa Jesu của người Do Thái, là con của Đức Chúa Trời, đã “mượn” Đức Mẹ đồng trinh để đầu thai xuống trần gian hòng chịu tội cho chúng sinh lầm lạc. Tội gì? “Tội tổ tông”, tội của bà Eva và ông Adam - thủy tổ của loài người - nghe lời xúi bẩy của con rắn (tượng trưng cho cái khôn ngoan của quỷ sa tăng), đã ăn “trái cấm” ở vườn Địa đàng (Eden) và bỗng nhiên cảm thấy xấu hổ vì cái sự lõa lồ của mình. Chiếc lá nho (hay lá vả) huyền thoại đã lập tức nảy ra trong Kinh thánh, chỉ để làm cái việc chữa thẹn cho cặp đôi “con giời” ở cái phút ban đầu thực sự làm người. Không chịu nghe lời răn của Đức chúa trời, loài người đã phải trả giá đắt cho cái “tội tổ tông” truyền kiếp, đó là phải chấp nhận đau khổ và phải chết.

Nếu ai đã đọc về sự tích ra đời của Đức Phật ở xứ Ấn cổ đại, thì hẳn biết hoàng thái tử Siddhattha (Tất-đạt-đa) “đản sinh” từ nách của bà Hoàng hậu Ma Giavào giây phút cánh tay bà đụng đến nhành cây vô ưu một ngàn năm mới nở hoa một lần trong vườn Lumbini (Lâm-Tỳ-Ni). Bà thụ thai hoàng tử khi đang nằm nghỉ trưa mơ thấy có một con voi trắng sáu ngà từ trên trời bay xuống và chui vào hông phải của bà. Thánh Gióng, trong thần phả của nước Việt cũng đơm hoa, kết trái từ sự tò mò của bà mẹ nghèo đã thử ướm chân mình vào vết chân “người khổng lồ” để lại trên cánh đồng làng Phù Đổng xưa. Như vậy, đã là Chúa, là Phật, là Thánh, là Thần thì đâu có đến cuộc đời này theo cách phàm tục kiểu “giai trên gái dưới” như người đời chúng ta!

Phồn thi có phảng phất “chất tạp”, “chất tục” nhưng không phải là “tạp thi”, “tục thi”. Thôn quê thì thường nghiêng về phía phồn thực, phồn sinh, thậm chí hơi phồn “tục”, nhưng không hẳn dung tục. Thị thành nghiêng về phía phồn hoa, có phần thanh lịch, tao nhã, nhưng cũng có phồn “tạp”. Người quê vốn “tục” chứ đâu có “thanh” như người phố. Nhưng đây là cái tục lành mạnh, khỏe khoắn, tục mà không dâm, mà có dâm cũng không bậy của người dân lao động, những “lão nông tri điền” thấm nhuần cái triết lý “ráo mồ hôi thì cũng ráo tiếng cười, ráo tiền bạc”. Ấy là nói chung, chứ cái “bông hoa nhài” của người Tràng An thời nay không phải lúc nào cũng thanh, cũng lịch, mà cũng tục, cũng tạp, dù là “tục có nghệ thuật”, “tục có môn bài” (!).

Phồn có gốc gác nhà quê song lại gắn liền với phố, như một mặc định thời thượng. Trong nhịp sống hiện đại, chất dân gian làng quê dường như đang chuyến dần sang chất dân gian đường phốNgười ở phố gọi là thị dân, hay người kẻ chợ, khác với người ở quê gọi là thôn dân hay người nhà quê. “Giàu ở quê không bằng ngồi lê thành phố” chính vì sự ngộ nhận như vậy mà người ta ùn ùn kéo ra thành phố mong có cơ hội đổi đời, hội nhập vào xã hội văn minh công nghiệp mới lên, đánh đu với giới thượng lưu mới nổi. Hắn cũng trong số đó. Có khác chăng là hắn ra phố có phần “chính ngạch”: tốt nghiệp đại học thì được tổ chức giữ lại trường. Lĩnh lương tháng nhưng hắn chưa bao giờ thực sự là cán bộ nhà nước, thành người của hệ thống. Đã thường trú tròm trèm nửa thế kỷ ở phố, trải từ thời tem phiếu mậu dịch đến thời siêu thị tự do, rồi lên chung cư cao tầng, thì đích thị hắn là người của phố, là tiểu thị dân rồi“Thị dân trong ăn/ Chán cơm có phở/ Thị dân trong ở/ Nhà ống mái tôn...”. Tuy nhiên, vốn là con của hoa hoang cỏ dại, cháu của bùn đất lam lũ, trong hắn cũng có tố chất “phồn”:

Nhà quê khí huyết tràn trề

                        Tớ đi rung cả vỉa hè Đồng Xuân

Ấy cũng là mượn giọng khẩu khí pha chút phóng đại thêm của thế nhân, chứ hắn thực ra thì“Dáng đi có lỗi với đời/ Cái đầu cúi xuống thay lời chào duyên”. Nói cho đúng thì hắn là gã “dở tỉnh, dở quê”, còn giọng thơ hắn thuộc loại “nửa bi, nửa hài”, đan xen giữa bình dân và… bác học, thấm đẫm chất dân gian nhà quê pha trộn với chất dân gian đường phố. Hắn đã từng viết “Hình dung về tôi xin cứ đọc “phồn thi”/ Nếu có dịp về thăm quê tôi nữa/ Xứ “phồn thực” thơ lên xanh như­ cỏ/ Trai gái giao duyên ngay cả chốn đền chùa…”.

Quê có hồn. Hồn quê, hồn làng hầu như ai cũng biết, cũng ngấm. Hồn làng nguyên sơ, trong trẻo, hương đồng gió nội đã được các thi sĩ của “trường thơ Quê”, gồm bộ bốn Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, Bàng Bá Lân phân nhau vinh danh, chốt giữ ở Tâm hồn tôi, Bức tranh quê, Thôn ca, Tiếng sáo diều... Trải qua thời đô thị hóa pha Tây hóa xưa sang thời mở cửa, hội nhập nay, hồn làng có bị phôi pha, song nhìn kỹ vẫn thấy đó đây ít nhiều căn cốt. Hồn phố, có hay không? Nếu có thì nó thế nào? Ai là người vinh danh cho nó?

Thì còn là ai nữa, đời nay nếu không phải là Nguyễn Đình Thi, một tài hoa của mảnh đất ngàn năm văn hiến. Ông viết không nhiều song ấn tượng lại mạnh. Với cảm quan của một nghệ sĩ lớn, ông đã gửi gắm hồn Việt, với hồn quê hòa cùng hồn phố, ở khúc tráng ca Người Hà Nội, và bài thơ Đất nước. Trong đó, cái đắm say thông sử pha với cái mờ ảo huyền sử của“Đây lắng hồn núi sông ngàn năm. Đây Đông Đô đây Thăng Long…” và cái tâm linh trầm lắng của“Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất/ Những buổi ngày xưa vọng nói về”. Ăn theo ông, dù không hào hoa như ông, hắn cũng đã viết “Phố cũng có hồn/ Rì rầm ngõ tối/ Phố cũng có bụi/ Bụi đất bụi người/ Phố cũng có mùi/ Mùi hoa mùi rác”. Muốn hay không, trào lưu đô thị hóa với tốc độ chóng mặt hiện nay đang khiến làng và phố, quê và tỉnh xích lại gần nhau, đan cài vào nhau. Kiểu “phố nửa làng”, “làng trong phố”, hay “làng phố giao duyên”, là đặc trưng của cả làng và phố thời nay.

Quê có đường làng, đường giong, rồi đến ngõ là hết, chỉ là ngõ nông hay ngõ sâu, ngõ rộng hay ngõ hẹp.“Năm gian nhà cỏ thấp le te/ Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe” là cái ngõ của cụ Tam nguyên làng Yên Đổ khi đã cáo quan lui về vườn Bùi chốn cũ ở cái tuổi “lụ khụ”. Phố thâm sâu hơn, có đường, có ngõ, có ngách rồi có cả hẻm. Kể từ ngày Tây sang thì phố còn có số nhà nữa “Nào ai là kẻ tìm ta đó/ Đốt đuốc mà soi kẻo lẫn nhà” là thơ cụ Tú làng Vị Xuyên (sinh thời trú ở số 247, sau chuyển sang số 280 cùng phố Hàng Nâu, tp.Nam Định). Phải đốt đuốc mà soi lên vì điện đóm ngày đó cũng phập phù không dễ nhận ra biển ghi số nhà chăng? Ấy vậy mà sau một thế kỷ, “chuyển đổi số”, “số hóa” hiện đang là từ khóa để tìm hiểu thời 4.0 này.

Trong bối cảnh thế thời đổi thay, đan cài cũ mới, vào một đêm khó ngủ cụ Tú đã buột miệng than rằng:“Trời xui khiến vậy sông lên bãi/ Ai khéo xoay ra phố cả làng”. “Sông nên bãi” do “trời khiến”, chứ “phố cả làng” thì “ai xoay”, cụ chịu. Vì nghĩ không ra nên “Trời không chớp bể với mưa nguồn/ Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn”. Dằn dỗi vì “đệ nhất buồn là cái hỏng thi”, và đệ nhị buồn vì “Nhà kia lỗi phép con khinh bố/ Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng” cụ lên giọng đay nghiến“có đất nào như đất ấy không?”. Chẳng có ao, có vườn để mà thu điếu, thu ẩm, thu vịnh như cụ Tam Nguyên, cụ Tú Tài đành nằm liu riu lắng ký ức u ôm chập chờn đồng vọng từ sông Lấp để rồi thảng thốt“Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò”. Thì ra cái mạch ngầm nơi sông Lấp vẫn hằng chảy trong tâm tưởng, làm khổ cụ. Gọi “cụ” cho nó long trọng, chứ  thực ra Tú Xương lúc ấy mới U bốn mươi, ở độ tuổi anh thôi!

Tiếng gọi đò mông lung, diệu vợi nơi tâm tưởng cụ Tú Thành Nam, đến thời anh trai Nguyễn Bính của thôn Vân, xóm Trạm thập thành ra phố, chưa quen nhảy tàu điện, thì đã thành ra tiếng hú gọi chấp chới, thất thanh Đò sang còn một chuyến này/ Khách sang còn một người đây hỡi đò!”. Nhưng rồi chuyến đò vét ấy cũng chỉ là một “Chuyến đò thân thế đưa toàn hận”. “Lỡ bước sang ngang”, một trong những thi phẩm nổi tiếng làm nên tên tuổi Nguyễn Bính, đâu chỉ đơn giản  giọt nước mắt vắn dài của của cô gái tuổi 17 giã biệt mẹ già về nhà chồng trong tâm thế tức tưởi của kẻ bị ép gả, mà còn là tiếng thở dài não nuột của nhiều kiếp lỡ làng mang tính thời đại:“Sang ngang lỡ bước một mình chị đâu”,“Đầy thuyền hận có biết bao nhiêu người”.

Phồn mang tính nhân loại và xuyên lục địa. Tín ngưỡng phồn thực có mặt ở nhiều nền văn hóa từ Á sang Âu, từ Phi sang Mỹ, với các lễ hội, tập tục tôn vinh sinh thực khí nam nữ và cả chuyện “trên bộc trong dâu”. Tác giả “Bài ca chính tôi” trong tập thơ “Lá cỏ” đã không một chút ngại ngần khi tụng ca thân xác và tự do tính dục: “Walt Whitman, một vũ trụ, con của đảo Manhattan/ Ngỗ ngược, đẫy đà, thích khoái lạc, thích ăn, nhậu, và trò truyền giống/ Không đa sầu, đa cảm, không đứng trên đàn ông hay đàn bà, hoặc tách khỏi họ/ Không phách lối mà cũng chẳng quá khiêm nhường”. Với Whitman: “Không một đốt tay, không một bộ phận nhỏ nào là xấu xa đê tiện…Tôi tiếp nhận tất cả mọi bộ phận và tất cả mọi thứ thuộc về tôi và thuộc về mọi người thân tình và sạch sẽ”

Phồn là anh em sinh đôi với cái “hài”, cái “hóm”,  kỵ cái “nghiêm nghị”, “lố bịch” biểu hiện rõ nhất ở tiếng cười. Song không phải cái cười nào cũng là cái hài. Tiếng cười phải sâu sắc, thâm thúy, bao hàm trong nó một hàm lượng trí tuệ nhất định thì mới là cái hài, một phạm trù triết-mĩ. “Con người là một động vật biết cười” là một câu trứ danh củAristote - một triết gia khổng lồ thời cổ Hy Lạp. Đúng vậy, động vật biết hót, biết hú, vẫy đuôi, vẫy tai… bày tỏ cảm xúc của mình, song không biết cười như là một “phạm trù thẩm mĩ”, nhất đó lại là “cái cười của thánh nhân” xuyên không-thời gian.

Hỷ-nộ-ái-ố là bản tính cố hữu của con người, mà “hỷ” đứng đầu. Người Việt vốn thích cười. Nhà văn hóa Nguyễn Văn Vĩnh đã từng xem “cười” như là một căn tính không mấy đáng biểu dương của người Việt “An Nam ta có một thói lạ là thế nào cũng cười. Người ta khen cũng cười, người ta chê cũng cười. Hay cũng hì, mà dở cũng hì; quấy cũng hì. Nhăn răng hì một tiếng, mọi việc hết nghiêm trang” (Gì cũng cười). Bố thì có vẻ nghiêm chỉnh thế, chứ trong thơ Nguyễn Nhược Pháp - con trai cụ Vĩnh, thì luôn thường trực một nụ cười vừa bí ẩn vừa hóm hỉnh. Trong trường hợp này, câu “giỏ nhà ai, quai nhà ấy” hình như không ứng hợp.

Hãy xem Nguyễn Nhược Pháp diễn tả cái bối rối của Vua Hùng đất Phong Châu xưa“Nhưng có một nàng mà hai rể/ Vua cho rằng thế cũng hơi nhiều”, hay diễn giải cái ghen của Thuỷ Tinh “Trần gian đâu có người dai thế/ Cũng bởi thần yêu nên khác thường”. Trong mắt Nguyễn Vỹ thì tác giả Sơn Tinh, Thủy Tinh là người “hay nói, hay cười, tuy chỉ cười mỉm, và rất ưa nói khôi hài, giọng nói rủ rỉ dịu dàng như cô gái bẽn lẽn trên đường đi chùa”. Còn Hoài Thanh viết rằng: “Đọc thơ Nguyễn Nhược Pháp, lúc nào cũng thoáng thấy bóng một người đang khúc khích cười”. Trong khi tặng cho tác giả Sơn Tinh, Thủy tinh cái nụ cười “riêng của người Việt”, tác giả Thi nhân Việt Nam đã không khỏi tỏ ý luyến tiếc “Thế mà lạ, trong vườn thơ nó chỉ nở ra có một lần”. Rồi ông, băn khoăn tự hỏi:“Không biết ai đã giúp Nguyễn Nhược Pháp tìm ra nụ cười kín đáo, hiền lành và có duyên ấy? Alfred de Musset chăng?”. Không. Dân gian Việt giúp đấy!

“Người Việt Nam hay cười” cũng thường là cảm nhận của khách nước ngoài khi tới nước ta làm ăn, hoặc tham quan, du lịch. Chẳng rõ là họ khen hay chê. Nhưng họ đâu biết cũng chính cái tiếng “hì”, vừa ngây thơ hồn nhiên, vừa sâu sắc hóm hỉnh ấy, đã là sung lực gúp người Việt vượt qua bao thăng trầm, hóa giải bao vấn nạn, chiến thắng bao kẻ thù, để tồn tại và phát triển. Tiếng cười hoặc ý nhị, nhẹ nhàng, hoặc thâm thúy, sâu cay trong chuỗi truyện dân gian Tiếu lâm, Trạng Quỳnh, Trạng Lợn, Thơ Hồ Xuân Hương (thực chất là tập hợp của trào lưu dân gian cao cấp), Ba Giai-Tú Xuất, Xiển Bột … là những kết tinh trí tuệ bình dân, là phản ứng của con người trước nghịch cảnh, và trong một chừng mực nào đấy, đã giúp cho người dân Việt vui sống, bởi cái triết lý bình dân “một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”.

Bên Âu Tây không hiếm những bậc thầy về sự diễu nhại, cũng như những ngòi bút luận bàn về cái hài hước (humour). Nói về ý nghĩa của tiếng cười thì ngay từ thời cổ Hy Lạp, triết gia Platon cho rằng, “Không thể nhận thức được cái nghiêm chỉnh nếu thiếu cái buồn cười”. Văn hào người Nga, gốc Ukraina, N.Gogol ở thế kỷ XIX đã xem “Cái cười là một đại sự, nó không lấy mất sinh mạng và của cải của ai, nhưng kẻ bị cười y như con thỏ bị buộc chân”. Chưa xa lắm, nhà “thi pháp học” người Nga M.Bakhtin cũng cho rằng “Chính tiếng cười đã xóa bỏ khoảng cách sử thi và nói chung mọi khoảng cách ngôi thứ - giá trị - ngăn chia”. Còn Milan Kundera (nhà văn Pháp gốc Czech) đã rất ý nhị khi cho rằng“Chẳng có gì khó hơn là làm cho người ta hiểu cái hài hước”. Như vậy, cái cười, cái hài hước, theo như ám chỉ của Gogol, là một “đại tự sự”, chứ chẳng để chơi.

Văn chương bác học thời trung đại nhiều tiếng khóc mà ít tiếng cười. Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm…, những kiệt tác cổ điển, trục chính cũng chỉ xoay quanh cái bi, cái buồn của thân phận người phụ nữ, như đã được mặc định bởi tạo hóa. Pháp sang, rồi đô thị hóa lần I, mà cụ Phan Bội Châu gọi là “tuồng thiên diễn mưa Âu gió Mỹ”, đã là chất xúc tác cho sự ra đời hai nhà thơ trào phúng trứ danh đất Nam Hà xưa là Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương. Liền ngay sau đó nảy ra của hiếm là kiệt tác “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng. Chợt nhớ một câu trong “Đôi mắt”:“Phụng nó còn sống bây giờ phải biết”. Chỉ một câu tưởng như bâng quơ cũng đủ thấy rằng cha đẻ Chí Phèo rất phục tài bố đẻ Số đỏ, dù văn của hai ông khác hẳn nhau về phong cách.“Ông/ kẻ hay cười/ Song/ không bao giờ thành tiếng”, hắn đã hình dung tác giả Số đỏ như vậy. Ấy là cái cười gằn, cái nhếch mép của cao thủ họ Vũ. Hắn “thấp thủ” nên cười thành tiếng, cười dai, cười dại, thậm chí cười vô duyên kiểu “vãi cả ra quần”, nghĩa là rất bình dân.

Thời hiện đại tiếng cười trào lộng vẫn xuất hiện đây đó trong một số sáng tác của Nguyễn Công HoanTú Mỡ, Đồ Phồn, Lộng Chương…rồi nhanh chóng nhường chỗ cho cái hùng, cái cao cả, để lại những khoảng trống vắng lớn trong lòng bạn đọc yêu thích sự trào lộng. Đâu chỉ cái hài, ngay cả cái bi, cái buồn thời ấy cũng ít có đất thể hiện, nếu có thì cũng rón rén, kiểu đi nhẹ, nói khẽ, cười mỉm. Văn chương đương đại, nhìn chung, thiếu vắng tiếng cười, có chăng thì chỉ là thơ châm biếm, thơ đả kích nhuốm màu địch-ta, cùng những mẩu “tiếu lâm hiện đại” nơi bàn trà, quán nước. Chẳng biết do mạch chính thống chủ trương kiêng kỵ cái hài, đồng nhất nó với sự tung hê, phản cảm, phản thẩm mĩ, thậm chí “phản động”, hay do người cầm bút không đủ tài, đủ tâm, đủ tầm để thử sức mình trong những diễn ngôn diễu nhại, phản tư thì cũng không rõ. Dù gì thì văn học ta một thời cũng thiệt thòi vì đã lọc bỏ giá trị thanh tẩy của tiếng cười.

Trong một thế giới ngày càng đa tạp, chứa đựng cả cái hợp lý lẫn cái vô lý, thậm chí phi lý thì giá trị thanh tẩy của tiếng cười càng có ý nghĩa. Tiếng cười trào lộng, nếu thực sự là tiếng cười thẩm mĩ, luôn có ý nghĩa hai chiều, hủy cái cũ, cái xấu và tạo ra cái mới, cái tốt đẹp. Gần đây, tiếng cười, cái hài hước nhiễu nhại có khởi sắc, thể hiện trong sáng tác của một số nhà văn, như Lê Lựu, Hồ Anh Thái ở tiểu thuyết, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Hiếu trong kịch, Nguyễn Huy Thiệp, Lê Anh Hoài trong truyện ngắn... hay trong lối thơ dân gian-hiện đại của Nguyễn Bảo Sinh, Văn Thùy... Dù vậy, còn lâu tiếng cười, cái hài mới thành dòng, thành mạch - mạch trào tiếu, và có chỗ đứng bình đẳng với các dòng khác, mạch khác đã in đậm dấu ấn trong văn chương nước nhà.

Các danh hài thời nay xuất hiện khá nhiều trên sân khấu, trong phim ảnh, thậm chí có người còn tự tấn phong là “vua hài”, “vua hề”, song các show diễn của họ chỉ dừng ở mua vui, có tính chất thị trường thường là vô thưởng vô phạt, mà chưa có đủ “hàm lượng trí tuệ” để  được xem như một phạm trù thẩm mĩ. Trên giá sách cũng chưa thấy xuất hiện một danh tác nào được liệt vào hàng có tài, có tầm về hài hước, diễu nhại. Không dám nói ở tầm văn hào Cervantes, Rabơle, Molie, N.Gogol, Bernard Shaw, Mark Twain…mà ở cỡ nhà văn châm biếm trứ danh như Azit Nexin, hay Lỗ Tấn cũng không. Ai đó bảo rằng Khi cuộc đời cho bạn cả trăm lí do để khóc, hãy cho đời thấy bạn có cả ngàn lí do để cười”. Có ngàn lý do để cười trong cuộc đời, vậy mà tìm dăm ba tiếng cười cho ra cái sự “trào tiếu”, cái giọng “diễu nhại” trong văn chương ta sao cũng khó vậy thay!

Khi hắn chuyển từ mạch “quê”, mạch “cỏ” trong trẻo sang mạch “phồn”, mạch “phố” đậm chất suồng sã, trào lộng dư luận thôi thì khen chê đủ cả. Người khen bảo rằng chuyển mạch như thế là rất nên, cứ “giả quê”, thương nhớ đồng quê từ xa, từ xưa mãi thì cũng nhàm. Cứ nghĩ, có lẽ Hội nhà văn Hà Nội trao giải cho “Phồn thi I” (năm 2004) là để biểu dương cái sự chuyển mạch ấy chăng? Còn người chê thì bảo rằng cứ“Nhấp nhô mông ngực, hư hao trữ tình” thì rồi cũng nhảm, không còn là Phạm Công Trứ nữa. Cỏ may xem như đã dứt lời thề, trăng vàng bờ đê coi như đã chết. Chẳng “nhàm” cũng “nhảm”, biết thoát ra bằng cách nào đây, thôi thì:

Sự đời bên trọng bên khinh

Nơi dân dã chốn cung đình, biết sao!

Chùm “Phồn” phần lớn được trích xuất từ ba tập “Phồn thi ” đã xuất bản vào các năm 2004, 2006, 2009, cộng với những bài khác cùng nằm trong mạch phồn, mạch phố. Trong một bài viết, khi phân tích cái sự bi lụy, hay than khóc của hồn thơ Nguyễn Bính, đồng thời biểu dương giọng truyền thống cùng cái vạt trào lộng của thơ hắn, nhà thơ cũng là nhà phê bình Vũ Quần Phương viết“Phạm Công Trứ gặp khó, gặp sự đời trái khoáy thì bông phèng, cười tếu táo. Ấy vậy mà, sau nụ cười tếu táo ấy lại cho thấy một sự lặng thầm âu lo, cả nghĩ”.

Nhà thơ Trần Đăng Khoa, người đã từng bắt chước giọng văn Tam Quốc diễu rằng “trời đã sinh ra Trứ, sao trước đó còn sinh ra Bính” cũng cho rằng:“Phạm Công Trứ không như vậy (tức không bi lụy hóa đời sống). “Bây giờ lạ nữa cả tôi/ Đôi khi cứ ngó lên trời tìm chi/ Tìm chi? Tôi có tìm gì? Sòng đời sấp ngửa nửa bi nửa hài...”“Nửa bi nửa hài” mới là Phạm Công Trứ. Cuộc sống nhiều khi buồn lắm chứ. Buồn nhưng không bi lụy. Anh hóa giải nỗi buồn bằng cái nhìn hài hước. Đằng sau nước mắt là nụ cười. Ngay trong nụ cười cũng đã có nước mắt. Đời sống thường là thế”.

Đọc chùm Phồn, mà có ai thấy mình cũng như thuộc họ nhà “phồn” thì hắn lấy làm vui, vì nói như nhà tâm lý học và triết gia Wiliam James “chúng ta hạnh phúc vì chúng ta cười”, còn nói như vua hề Charlie Chaplin “Ngày mất mát lớn nhất trong cuộc đời là ngày chúng ta không cười”. Ai không nhếch mép được, thì hắn cũng đành chịu.

Còn với ai đó, “phồn thi” chẳng khác gì “tục thi”, vô duyên, phản cảm thì cũng xin hai chữ “đa tạ”. Hắn đồng quan điểm với dịch giả kiêm thi sĩ thời thượng Thái Bá Tân“ Đồng nghiệp chê cũng kệ/ Quan tâm làm đếch gì/ Thế nhé, xin mời đọc/ Cười được thì cười đi”.

Cười, không chỉ để cười. “Ngụ bi ư hài” (gửi cái bi vào trong cái hài) mới là ẩn ý của hắn:

Ai khóc

Mặc

Hắn chỉ cười

Cười rũ một hồi nước mắt ứa ra!

chim_cuoc

 

 

 In bài viết

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét