NHÀ THƠ BÙI QUANG THANH
THƠ & LỜI BÌNH:
Trong khá nhiều bài viết của các nhà phê bình, các nhà văn, nhà thơ về Thơ Bùi Quang Thanh, tôi rất thích bài bình này của Ths Phạm Quang Ái, một cây bút phê bình văn học của Hà Tĩnh.
Bài thơ "Ghi ở nhà lưu niệm Nguyễn Du" được viết cách nay hơn 30 năm trong một lần tôi cùng nữ nhà văn Trần Thanh Hà (NXB CAND) về viếng mộ Đại thi hào Nguyễn Du. Hồi đó Khu di tích này còn là "Nhà lưu niệm" đơn sơ, hoang vắng, gợi cho tôi cảm giác đang bị bỏ rơi bên cạnh cuộc sống ồn ào náo nhiệt xung quanh. Bài thơ được viết trong dăm phút, tại bậc thềm căn nhà gỗ trong khuôn viên di tích.
Cảnh cũ còn lưu lại
Làm bồi hồi mai sau
Ngàn năm rồi gỗ tốt
Có cần sơn thiếp dâu
Gió từ sông vào vườn
Quẩn quanh trên cành lá
Cái cũ thì hóa đá
Cái mới chưa ai xây
Khói lên trời cứ bay
Lệ nàng Kiều vẫn nhỏ
Rượu tràn li ngoài phố
Mồ thi nhân thiếu hoa
Muôn cành thông nhọn buốt
Ca cung đàn người xưa.
8/1994
CA CUNG ĐÀN NGƯỜI XƯA
PHẠM QUANG ÁI
Đó là câu thơ kết bài thơ “ Ghi ở nhà lưu niệm Nguyễn Du” của Bùi Quang Thanh. Kết nhưng không khép, mà mở ra một nỗi buồn mênh mang nhức nhối. Đã thế bài thơ lại được tác giả đưa vào tập thơ “ Hạt Đắng”(1),một tập hợp những nỗi niềm nhức nhối, những hoài niệm đắng cay của trái tim buồn cố hữu. Chả vậy mà tác giả viết đề từ ở trang bìa sau của tập thơ “ Tôi nhặt lên niềm vui ai đó bỏ quên bên đường phố thả vào chiếc cốc cuộc đời. Niềm vui lặn xuống dưới đáy còn nỗi buồn tràn ra ngoài miệng cốc. Niềm vui vay mượn không hề sủi bọt trong tôi”.
Bài thơ gồm 14 dòng và có cấu trúc là lạ. Nếu căn cứ theo tổ chức vần thì có thể chia bài thơ thành 4 khổ: ba khổ đầu mỗi khổ 4 câu, khổ cuối chỉ có 2 câu. Điều độc đáo là tác giả lại tổ chức bài thơ theo liên, cứ hai dòng đi liền kề nhau tạo thành 1 cặp, cả bài thơ có 7 liên ngũ ngôn tạo thành vế song hành, đăng đối với nhau khá tề chỉnh. Vốn thơ ngũ ngôn dòng ngắn nhưng dễ dài lời, thuận lợi dùng cho việc để kể trong dặm vè. Dùng nó thuần bộc bạch trữ tình không khéo dễ con cà con kê. Có lẽ tác giả ý thức rõ điều đó nên đã lựa chọn cấu trúc bài thơ theo liên như đã nói trên. Dường như cố tình mô phỏng cấu tứ, nên phần lớn các liên thơ đều triển khai ý nghiã theo lối song quan , hoặc tương phản nghĩa hoặc bổ sung nghĩa cho nhau. Liên thơ đầu cũng “ thường thường bậc trung”
Cảnh cũ còn lưu lại
Làm bồi hồi mai sau
Tuy có vẻ xôi chè nhưng nó tạo ra được không khí hoài cổ,điếu cổ thương kim. Nó đã gợi về trong tâm hồn người đọc những tiếng thơ u hoài khác của Tố Như :
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
( Độc Tiểu thanh ký )
Tưởng mở ra như thế rồi tác giả sẽ chuồi theo cảm hứng chia sẻ với người xưa. Song đến liên thơ thứ 2 thì dòng cảm xúc bị chững lại :
Ngàn năm rồi gỗ tốt
Có cần sơn thếp đâu
Phải chăng nhà thơ chỉ chiêm bái danh nhân ?Xét về mặt chỉnh thể thì 4 câu này đã trọn vẹn một ý nghĩa để trở thành một bài thơ ghi vào sổ lưu niệm về thi hào. Nhưng dòng cảm xúc của Bùi Quang Thanh lại tràn sang một hướng khác : ‘Độc thương nhiên nhi thế hạ’ ( Nghĩ lòng đau mà chảy lệ). Đột biến tứ thơ, mạch thơ bắt đầu từ đây :
Gió từ sông vào vườn
Quẩn quanh trên cành lá
Liên thơ tả cảnh duy nhất trong bài thơ. Cảnh được tả rất thực, rất sinh động. Đọc qua ngỡ như chả ăn nhập vào mạch trữ tình, chẳng qua chỉ là một thứ trang điểm. Ngẫm kĩ, mới giật mình. Hình như cái gió này ta gặp ở đâu rồi ? À, thì ra là những cơn gió âm trong Truyện Kiều, là cái “vi âm khí” trong “Văn tế thập loại chúng sinh” và hàng loạt thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Đây là cơn gió thổi từ mộ Đạm Tiên :
Ào ào đổ lộc rung cây
Ở trong dường có hương bay ít nhiều
Đè chừng ngọn gió lần theo
Dấu dày từng nếp in rêu rành rành…
Thổi trong lời trao duyên đau đớn của Kiều :
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Chính câu thơ tả gió đó, Bùi Quang Thanh đã chuyển dịch ý thơ giọng thơ: từ trầm tư chiêm bái sang xót xa. Và con gió ‘ quẩn quanh trên cành lá’ đó cũng là một thứ âm phong, nghiệp chướng. Tác giả trúng ngay cái gió ấy và khôn xiết cảm khái :
Cái cũ thì hóa đá
Cái mới chưa ai xây
Liên thơ mang nhiều nghĩa: “Cái cũ” là di sản hay di tích của danh nhân, là truyền thống văn hóa dân tộc trong di sản của danh nhân? Tương tự, “Cái mới” là việc tôn tạo di tích danh nhân hay là việc xây dựng nền văn hóa mới của dân tộc? Tiếp theo những câu thơ chua chát như xát muối vào lòng người đọc :
Khói lên trời cứ bay
Lệ nàng kiều vẫn nhỏ
Rượu tràn ly ngoài phố
Mồ thi nhân thiếu hoa
‘ Khói bay… Rượu tràn’ người đời hoặc vô tình, hờ hững hoặc phởn phơ, hý hửng; sống gấp sống vội, lặn ngụp trong danh lợi.
Đây là những liên thơ đóng vai trò hạt nhân, tích lũy và phát xạ năng lượng của cả bài thơ. Chỉ tiếc tác giả chỉ dùng ‘ thiếu’ hơi nhẹ và hẹp nghiã. Tiên giả định và hàm nghĩa của nó quá đơn giản : ‘Thiếu’ nghĩa là có nhưng không đủ về số lượng và mang hàm ý trách người đời bạc với danh nhân. Theo thiển nghĩ cuả chúng tôi, dùng từ “Héo” thay cho từ “Thiếu” thì hay hơn và đắt hơn nhiều. Tiền giả định từ này tuy không nói ít nhiều về số lượng hoa viếng như từ “Thiếu” nhưng nó lại nói được là năm thì mười họa mới có hoa. Còn hàm ý từ “Héo” hay là danh nhân héo lòng, tác giả héo gan , héo ruột trước cảnh cuả đời người phũ phàng, hay là do ‘ rượu tràn ly ngoài phố’ làm bỏng héo hoa trên mồ thi hào? Nếu như tác giả dùng chữ “Héo” thì ý thơ mới hô ứng mạch lạc với liên kết bài thơ :
Muôn lá thông nhọn buốt
Ca cung đàn người xưa
Liên thơ kết bài gợi về hình tượng cung đàn bạc mệnh xưa kia tay nàng Kiều từng “Bốn dây như khóc như than”, “Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay” để “Khiến người trong cuộc nát tan cõi lòng”. Thì nay, cung đàn đó lại được tấu lên với “Muôn lá thông nhọn buốt”. Đó là tiếng đàn băng hoại nhọn buốt của thời gian mà người thơ hậu thế hữu tình có thể nghe được khi đứng trước di ảnh của tiền nhân. Đó cũng là cái nhất điểm linh đài mà Quang Thanh có thể đạt đến trong những bài thơ như này.
Xưa này thơ viết về Nguyễn Du và thế giới nghệ thuật của ông vô cùng phong phú và đặc sắc. Trong kho tàng đó, bài thơ cuả Bùi Quang Thanh góp một tiếng nói riêng độc đáo và sâu sắc. Nó thật sự là một cái đinh để ghim tập thơ ‘ Hạt Đắng’ của anh vào lòng bạn đọc.
Can Lộc đêm 25-12-2001
Chú thích : Tập thơ ‘Hạt Nắng’ cuả Bùi Quang Thanh do nhà xuất bản Thanh Niên ấn hành năm 1997
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét