THẬT NGẠC NHIÊN VỀ TÍNH DỰ BÁO ĐỐI VỚI TRÍ TUỆ NHÂN TẠO AI!
THI SĨ MÁY
" Với một chiếc máy sửa đổi đôi chút để nó có thêm trí nhớ và có cả chút lý luận, người ta có thể
dùng máy để phiên dịch và viết văn "
I Thế nào là công bằng mà nói ở cõi đời này?
Đầu năm 2000... Các báo chí xuất bản đều sôi nổi đăng tin tức quan trọng về máy "viết văn" với
những đầu đề "rật gân" lớn.
Tờ Công Thức trong bài xã luận "Nhiệt liệt chào mừng các văn nghệ sĩ máy" đã giới thiệu như
sau:
"Nhờ áp dụng những những khả năng mới nhất của khoa học điện tử máy "viết văn" đã hoàn
thành, thoả mãn được nhu cầu văn nghệ ngày một gia tăng của loài người. Những sáng tác phẩm
của nó, vừa kịp thời, vừa minh họa đúng chính sách, sẽ giải quyết được mọi khẩu hiệu phức tạp
của cuộc sống.
"Mỗi giây đồng hồ máy đó có thể sản xuất ra được từ 7 đến 8000 dòng văn thơ. Nếu dùng sức và
tâm hồn "người" thì phải hàng ngàn văn nghệ sĩ có một trình độ sách vỡ rất cao, cặm cụi hàng
trăm năm mới làm nổi ...
" Do tính chất nhân văn của máy nên người ta tạo cho nó cái vỏ bọc ngoài hình dáng một anh
chàng trẻ, khỏe, đẹp ... chỉ khác người thật là đứng nguyên một chỗ không nói, cười, chạy nhẩy,
nhất là không yêu đương lãng mạn lôi thôi ..."
Báo Công-Thức kết luận:
"Chúng ta, những con người thật "cần" hợp tác, nhất trí với người máy, cần triệt để dùng họ vào
đội quân văn nghệ để các văn nghệ sĩ có thể chuyển sang các nghành công tác khác, tăng cường
thêm lực lượng kiến thiết thời đại điện tử của chúng ta".
Hơn một năm sau cái ngày tin vui đó truyền đi, thì hàng loạt văn sĩ máy ... được tung ra thị
trường . Một số cán bộ phụ trách về văn chương sính máy móc ở một số ngành, một số cơ quan xí
nghiệp, nông trường v�v... thi nhau mua về xử dụng . Ở những nơi đó, về văn nghệ, máy móc
được độc quyền tô lục chuốt hồng cuộc sống bình ổn, còn lũ văn nghệ sĩ bằng xương bằng thịt thì
bị gạt ra ngoài.
Nhạc sĩ Ảo Huyền được cử đi học lớp nghiên cứu nghề làm nước mắm; họa sĩ Lập Thể được điều
động sang mậu dịch; nữ sĩ Trong Trắng ném bút làm nghề đỡ đẻ. Thi sĩ Mây Nước ra bờ Hồ làm
nghề bói Kiều, tán róc về thành phần giai cấp cho những người có đầu óc mê tín dị đoan.
Văn sĩ Đắng văn Cay phải ra chợ Giời làm nghề bán văn, kiêm bán săm lốp. Săm lốp, vì cần
khuyến khích, nên được miễn thuế còn văn của Đắng văn Cay thì liệt vào loại hàng "vô dụng" và
phải chịu thuế 4 phần trăm. Rất ít người chịu quăng tiền ra mua. Đôi ba vị khó tính lại còn rỉa rói:
"Văn chương anh thì ra cái đếch gì ! Không ích lợi bằng chiếc đế dép cao su của tôi nữa kia !"
Nhà đạo diễn Kịch Kha được chuyển sang ngành nuôi cá vàng, vẩy bạc óng ả này là Điêu
Thuyền, con cá đen mặt sắt nọ là Bao Công, cặp cá đuôi lờ lồi mắt kia là đôi nhân vật tiểu tư sản
.v.v...
Tóm lại cả một bộ phận văn nghệ sĩ tơi bời rối loạn. Ai cũng thù ghét "người máy" mới ra đời
kia, nhưng ai cũng chịu thua, vì công bằng mà nói thì "máy móc" quả là kịp thời sự, thông kinh
sử, lại đúng khuôn phép, "tốt ăn tốt ở" hơn con người "thực" ở cõi đời này....
II. Vì sao mà "Lăng Quăng" nổi ghen ?
Ở nông trường tập thể Con én có nhà thơ trẻ tuổi Linh Quang. Suốt mấy năm liền, kể từ ngày
nông trường bắt đầu xây dựng Quang đã làm thơ, ca, hò, vè đủ kiểu, khi duyên dáng, khi nghịch
ngợm, khi thiết tha yêu đời để phục vụ nông trường. Mọi bài thơ của anh đã được bà con học
thuộc lòng. Nói chung anh làm việc tốt và được cảm tình nhiều người.
Nhưng có ưu thì cũng phải có khuyết. Cái khuyết của anh ta là hay vi phạm luật lệ. Giữa giờ
chính quyền, anh bỏ đi chơi. Khi thì đi câu với cụ Hay Rượu để tán ma tán mãnh về nhiều cái sự
đời. Khi thì đi lê la tâm sự với vài gã thanh niên bàn về những chuyện tương lai trên giời dưới
đất. Khi thì trò chuyện với một số phụ nữ ở nhóm giữ trẻ, để điều tra cái việc tại sao đàn bà, con
nít lại hay khóc như nhau. Đôi khi còn làm thư ký riêng cho vài bà lão viết thư gửi con cháu công
tác ở tỉnh xa. Ngoài ra anh còn bừa bãi như: giấy tờ sách vở không ngăn nắp, tóc không có đường
ngôi, áo mặc chuyên môn không cài khuy cổ; sáng tác thì không có chương trình kế hoạch.
Nghiêm trọng nhất là khi yêu cô Duyên cán bộ cơ xưởng của nông trường, anh không hề có báo
cáo trước. Tất cả những điều trên đây làm cho trưởng ban nội quy Nghiêm văn Túc, con người rất
khuôn vàng thước ngọc, phải lấy làm bực mình và chướng tai gai mắt.
Túc thường bắt bẻ anh và gọi riễu anh là Lăng Quăng. Cả nông trường về sau cũng quen gọi anh
bằng cái tên Túc xuyên tạc ấy.
Ông chủ tịch nông trường vốn người từng trải, hiểu rỏ câu "nhân vô thập toàn" lại biết mến tài
nên đối xử với Lăng Quăng rộng lượng. Cũng vì vậy mà trong khi có một số nơi đã mua sắm Văn
nghệ sĩ Máy, ông vẫn viện hết lý do này đến lý do khác để không chịu dùng các thứ "máy móc"
đó. Ông nói: "Còn khối nơi người ta không có người Máy mà phong trào văn nghệ của người ta
vẫn rầm rầm.
Có lúc ông lại phát biểu: "Đồng chí Lăng Quăng vẫn đủ khả năng phục vụ nông trường" hoặc văn
thơ "máy" thì hay làm sao bằng văn thơ "người" được. Nghiêm văn Túc luôn luôn đối lập với
những ý kiến đó, luôn luôn đòi nông trường Con én phải có một "thi sĩ máy".
Túc thì chẳng hiểu văn nghệ văn nghiếc là cái quái gì, nhưng chỉ nghĩ một cách sơ lược là được
cái gã "tốt ăn tốt ở" ấy về thì đỡ lao tâm tổn trí đối phó như đối với Lăng Quăng, phần nội quy ở
nông trường tất nhiên sẽ được bảo đảm.
Túc đòi hỏi nhiều lần mà cứ bị gạt đi, bèn mưu vận động một số anh em "cùng cánh" làm kiến
nghị phê bình ông Chủ tịch là cảm tình cá nhân, có tư tưởng bao che hữu khuynh với Lăng
Quăng, không có tinh thần cải tiến nông trường, thiếu tin tưởng ở kỹ thuật hiện đại.
Bản kiến nghị yêu cầu ông Chủ tịch phải cho nông trường sắm ngay một "người máy", về thay
thế Lăng Quăng, nếu không họ sẽ kiện lên trên . Ông Chủ tịch bị dồn vào nước không đồng ý
không được, nên đã quyết định tán thành, đồng thời ra chỉ thị vẫn để Lăng Quăng làm thơ như
trước; chiếu cố đến thành tích cũ của anh ta.
Thế là mười ngày sau, Nghiêm văn Túc lên Bách hóa tỉnh chọn lọc để mua một "thi sĩ máy" cổ
đeo biển đăng ký số 111.
Đêm ra măt Thi sĩ số 111 được tổ chức trọng thể. Câu lạc bộ treo đèn kết hoa rực rở như những
ngàu hội mùa. Nam nữ đều ăn mặc đẹp. Trước khi vào bàn tiệc, người ta thì thào bàn tán rất
nhiều về "anh ta" nhất là trong đám đàn bà con gái. Một nữ công nhân lái máy cày khoe khoang :
"Các bà chị ạ ! Em được xem mặt anh ta hôm mới khênh về rồi. Sao người "giả" mà đẹp thế, đẹp
hơn người "thật" chúng mình nhiều . Đôi mắt anh ta lại cứ nhìn em chằm chằm làm em ngượng
đỏ cả mặt".
Cô Duyên, người yêu của Lăng Quăng cũng ở trong đám ấy, muốn tỏ cho mọi người biết trình độ
học rộng của mình, cô bèn vanh vách thuật lại những điều đọc được về "Người Máy", đăng trong
tờ Công Thức.
Không một ai thèm để ý tới Lăng Quăng nữa. Anh thất thểu đi giữa đám đông, chẳng bắt chuyện
với ai cũng chẳng ai buồn nói chuyện với. Càng nghe những lời tán tụng "Thi sĩ Máy" lòng anh
càng nặng trĩu buồn phiền.
Bước vào tiệc rượu, Nghiêm văn Túc đạo mạo đọc diễn văn khai mạc với nhữngvăn vẻ hùng hồn
như sau: "Chúng ta hoan nghênh người bạn mới của nông trường và tin tưởng tâm hồn điện tử
của anh sẽ truyền hơi sống vào thi ca, ngõ hầu thúc đẩy chúng ta tiến mau trên con đường sự
nghiệp ..." Tán đến con số đăng ký 111, Túc nói: "Nếu đem triết tự con số đó, chúng ta sẽ có ba
con "nhất" nó biểu hiện anh bạn chúng ta có 3 điều trội nhất, ấy là: nhanh nhất, đúng nhất và kỷ
luật nhất. Tôi trân trọng đề nghị từ nay sẽ gọi tên là anh "Ba Con Nhất" cho nó mỹ thuật. Quay
sang phía Lăng Quăng, Túc cười đắc trí, kêu gọi Lăng Quăng nên cố gắng noi gương thi sĩ Ba
Con Nhất về mọi mặt, nhất là tôn trọng nội quy . Đọc diễn văn xong, Túc chắp hai tay lên ngực,
nghiêm chỉnh ngồi xuống; đảo mắt liếc trộm đám phụ nữ, y thầm nghĩ: may cũng có vài cô ả cảm
phục cái oai phong lẫm liệt của anh.
Tiếp đó, theo đúng nghi lễ, người ta mở tấm vải choàng phủ mặt để Ba Con Nhất xuất đầu lộ
diện. Toàn phòng đứng dậy vỗ tay, nâng cốc, chạm cốc hoan hô ầm ầm và xuýt xoa khen bộ mặt
phổng của Ba Con Nhất quả là đẹp. Người ta vặn những nút chữ sau lưng hắn, máy chạy sè sè
trong bụng hắn. Đôi mắt hắn lúc sáng lúc tắt trông tưởng như nhấp nháy.
Chỉ độ phần mười một giây, hắn đã nhả ra ở khe hở con sau gáy một tờ giấy có in bài thơ dài đáp
từ. Lăng Quăng được chỉ định lên ngâm bài thơ đó. Tiếng ngâm vừa dứt thì tiếng hoan hô lại ran
như sấm, nhiều cô gái nhẩy cẫng lên. Một bà mẹ quá xúc động chạy đến chỗ Ba Con Nhất đứng
dịu dàng hôn trán hắn. Một thanh niên ghé tai Lăng Quăng van vỉ mượn bài thơ đáp từ về chép
mà học.
Trong tiệc rượu, người ta vừa ăn vừa nắc nỏm khen từng chữ từng câu của bài thơ. Mấy cụ ông
râu dài trầm giọng lái đi lái lại những câu mà các cụ cho là lý thú nhất như:
Thời đại tươi vui đẹp nắng vàng
Rập rờn cờ đỏ trống khua vang
Bao tay lao động xây tươi đẹp
Phấn khởi nông trường tiến tiến hăng.
Rồi các cụ ho sù sụ làm cho các bà cụ mủm mỉm cười, nửa tình tứ nửa thương hại. Trong khi ấy
Nghiêm văn Túc thỉnh thoảng lại trang trọng gật gật cái đầu tỏ vẻ hài lòng và hả hê đảo mắt liếc
phụ nữ...
Lăng Quăng thì im như cá chép, đau khổ ngồi thu nhỏ mình trong bàn tiệc, cảm thấy mình bé
bỏng quá, tồi tàn quá. Mọi khi trong các buổi hiếu hỉ, anh là cái "đinh". Mọi người tha thiết nài ép
anh ngâm thơ. Mọi vỗ tay đều dành tặng cho những vần điệu du dương hay bốc lửa của anh.
Mọi đôi môi đều kín đáo trao cười. Than ôi! thời oanh liệt đó từ nay còn đâu nữa! Nhưng ai oán
nhất cho Lăng Quăng là cô Duyên xem chừng khác ý suốt tiệc rượu, cứ nhìn dán mắt vào Ba Con
Nhất dáng điệu mê mệt, nhiều lần đánh rơi đũa thià, hoặc gắp nhầm thức ăn ở đĩa người ngồi bên
cạnh, Lăng Quăng nổi ghen một cách thực thà và choáng váng....
III. Tâm hồn điện tử của "Ba Con Nhất"
Hàng ngày .... hàng ngày vào hai buổi sáng chiều, những bài thơ rút từ sau gáy Ba Con Nhất đều
được Nghiêm văn Túc cho ngâm trước máy phóng thanh. Hết ca tụng "Máy gặt về", "Điện về",
"Nước về" lại tả cảnh "Chuồng thỏ muà xuân", "Cánh đồng muà hạ", "Hợp tác xã muà thu" .v.v...
Bài nào cũng mở đầu bằng: "Thời đại tươi vui". Đoạn giữa thế nào cũng có: "Cờ đỏ ... trống khua
.... tay lao động". Đoạn kết bao giờ cũng có mấy câu kêu gọi: "Phấn khởi !.... tiến hăng !"
Nói đến nhiệm vụ thì sao cũng nhắc nhở: "Bỏ ăn bỏ uống một ngày, nhưng không bỏ được máy
cầy vinh quang..." Yêu nhau thì phát triển mãi cái thú duy nhất là: "Yêu nhau dù trọn một đời...
Xin đừng đắm đuối mà rơi lập trường"
Tâm hồn điện tử của Ba Con Nhất cứ một điệu như vậy, nhạt nhẽo truyền hơi sống vào thi ca, bao
trùm mọi truyện, mọi tâm tình, mọi cảm nghĩ của cả nông trường .... Một em bé chăn bò học đòi
Ba Con Nhất cũng ông ổng ngâm nga "Bỏ ăn bỏ uống một ngày ..."
Một chiều chủ nhật Lăng Quăng đi chơi rừng với Duyên. Có bàn chuyện cưới xin thì bị Duyên
chỉnh luôn: "Xem ra đắm đuối lã lơi ...Coi chừng kẻo lại đánh rơi lập trường" ... làm cho Lăng
Quăng thở dài sườn sượt.
Thấm thoát tới hội muà. Nông trường Con én thu hoạch tốt, có tổ chức mít tinh ăn mừng thắng
lợi. Chỉ trong nháy mắt Ba Con Nhất đã sản xuất được bài ca "Vụ muà thắng lợi" ngàn rưỡi câu.
Nội dung vẫn giống các bài cùng loạt do Ba Con Nhất sản xuất như "Ca làm cỏ thắng lợi.. Ca đi
săn thắng lợi ..." nghĩa là vẫn "Trời vui ... lúa vàng ... cờ đỏ hát ca vang ... tay lao động ... bỏ ăn
bỏ ngủ, quên sao vụ mùa ... phấn khởi tiến hăng ... công nông trí kết đoàn .v.v..." nghe xong mọi
người lại vỗ tay một cách hợp thời trang. Mấy cụ râu dài quen lệ lại láy vài câu để các cụ bà mỉm
cười.
Lăng Quăng lại thấy bực bội trong người, bật giậy như chiếc lò xo, đầu ngẩng cao phát biểu: "Sao
tồi đến thế! Nhạt như nước ốc đến thế mà bà con cũng thích được à !...."
Nghiêm văn Túc bèn nổi giận như lúc Chúa thấy quỉ Sa tăng đả kích vào con chiên của mình, hội
ý cấp tốc với một số trung kiên để phê phán Lăng Quăng. Một người nói: "Đồng chí Lăng Quăng
nặng óc địa vị ... thấy thơ của thi sĩ Ba Con Nhất được mọi người yêu thích thì sinh ra ghen tương
bất mãn". Một người phân tích: "Đồng chí Lăng Quăng nói xấu bạn ... phê bình thiếu xây dựng,
kiêu căng không chịu học hỏi ... như thế là tư tưởng phá hoại ...". Nghiêm văn Túc quên cả chắp
tay lên ngực trân trọng như mọi lần, vội vã lên diễn đàn vâ,n động lý luận kết tội Loang Quăng
coi thường sự thưởng thức văn nghệ của quần chúng và phạm vào chính sách đoàn kết giữa
"người Máy" và "người thực".
Túc đề ra ý kiến tổ chức một cuộc đọ tài văn thơ giữa Lăng Quăng và Ba Con Nhất. Nhiều người
giơ tay ủng hộ Túc. Túc nắm chắc phần thất bại nhục nhã về Lăng Quăng và như thế là dịp tốt để
dập vùi anh. Cô Duyên cũng lên diễn đàn xin có ý kiến, Lăng Quăng hồi hộp đợi, tin tưởng ít nhất
người yêu của mình sẽ bênh mình . Nhưng không ! Bằng giọng cả quyết, cô nói: "Nếu đồng chí
Lăng Quăng thua, tôi cương quyết sẽ cắt đường luyến ái ... vì tôi không muốn lấy chồng không
tiến bộ"
Lăng Quăng mỉm cười chua chát. Anh ngẩng cao đầu, nhận đọ tài với tên người "giả" đang được
mù quáng tôn sùng kia.
Ngay sáng hôm sau toàn thể công trường nghỉ buổi làm, tới câu lạc bộ chứng kiến một cuộc thi
văn nghệ không tiền khoáng hậu. Nghiêm văn Túc được chỉ định làm trưởng ban giám khảo, ngồi
giữa phòng, hai bàn tay chắp lại đặt giữa ngực, tỏ ra giáng nhân vật quan trọng. Bên tả là Ba Con
Nhất đứng, ngó bộ kênh kiệu . Bên hữu là Lăng Quăng ngồi thiểu não. Đầu bài thi ra như sau:
"Tả cảnh trời xuân". Túc đánh kẻng ra hiệu bắt đầu.
Phòng họp trở nên im lặng chỉ còn nghe thấy tiếng ruồi bay vo vo, tiếng máy chạy sè sè và tiếng
ngòi bút kêu soàn soạt.
Khốn nạn Lăng Quăng cắn bút mãi mới chưa đầy dăm câu mà Ba Con Nhất đã tuôn ngay một bài
thơ ba nghìn câu. thế là cuộc thì chấm dứt. Lăng Quăng thua hẳn hoi, mồ hôi anh vã ra, nét mặt
rúm lại . Anh được chỉ định ngâm hộ Ba Con Nhất. Giọng anh đau đớn xót xa (giọng của người
thất bại chua cay) khiến bà con lầm tưởng anh muốn làm nổi bật lên tâm hồn điện tử thiết tha của
Ba Con Nhất và người ta càng vỗ tay ầm ỹ.
Bài thơ cũng vẫn quanh đi quẩn lại những câu:
Rực rỡ vườn xuân cúc nở vàng
Hoa đào tươi nở báo Xuân sang
Dựng xây nhân loại tay lao động
No ấm từ nay mãi vẻ vang
Nhà máy khói vờn, đà thắng lợi
Công nhân trí thức thấy vinh quang
Xuân sang phấn khởi ta đều hứa
Kiến thiết nông trường, tiến tiến hăng
Hay:
Quên ăn quên ngủ, chớ quên đời
Chớ quên đất nước mây trời Xuân ....
Vài cụ râu dài lại làm cái việc thường lệ là nhại lại vài câu lý thú, không quên ho sù sụ để các cụ
bà thương hại . Nghiêm văn Túc đủng đỉnh đứng dậy, ra lệnh bế mạc, rồi rời phòng thi, mắt
không quên liếc ngược đảo xuôi, chắm mẩm thế nào cái dáng điệu quan trọng của mình cũng lọt
vào đôi mắt xanh nào đấy...
IV. Ba điều đáng chết và ba điều hên
Từ sau cái bữa hỏng thi, Lăng Quăng đã không được Duyên đoái hoài đến nữa.
Càng ngày cái vị trí của anh càng bị xuống. Nghiêm văn Túc lại quất những roi phê bình tàn bạo
vào những tác phẩm của anh, gây thành dư luận rộng rãi khiến cả nông trường thành kiến với thơ
anh đến độ thơ anh làm ra ngâm lên chỉ độ vài khúc là người ta nhao nhao kêu tồi, kêu đồi bại,
kêu lãng mạn. Có người lại chụp lên dăm cái mũ: phong kiến, tư sản, tiểu tư sản .v.v...
Một bữa, muốn đo lòng người, anh làm một việc gian dối là ký láo tên Ba Con Nhất xuống dưới
một bài thơ mới của anh rồi đem ra ngâm. Nghe xong, lập tức Túc đứng ra lảm nhảm phân tích
cho cả nông trường nắc nỏm khen hay. Anh liền nói rõ sự thật là bài ấy chính là anh làm thì một
số đông không tin, cho là khuếch khoác, một số khác (trong đó có Duyên) thì lại nói:
"Thảo nào bọn mình nghe xong cũng ngờ ngợ, cảm thấy bài thơ tồi quá ...".
Riêng Nghiêm văn Túc thì đao to búa lớn, phê phán anh về cái tội lợi dụng tên tuổi của Ba Con
Nhất để được tiếng khen, xúc phạm đến uy tín của lớp người "Máy". Lăng Quăng bị chăng chói
giữa cuộc sống đầy dẫy thành kiến, bị chung quanh không hiểu mình, bị bỏ rơi và lạnh nhạt. Mà
tất cả chỉ tại cái "máy người". Nghiêm văn Túc và cái người "máy" Ba Con Nhất vô tri vô giác
kia, sừng sững yêu quái ở giữa cái nông trường tươi đẹp này. Anh căm phẫn cao độ.
Một buổi chiều thoáng thấy bóng Duyên tiến về câu lạc bộ, anh liền theo sau, Duyên vào buồng
đặt Ba Con Nhất, bàn tay nàng đầy dầu máy chứng tỏ cô ả vừa ở cơ xưởng về là vào thẳng đấy.
Anh đứng sau rèm cửa nhìn vào, bỗng thấy Duyên ngoan ngoãn qùy xuống trước Ba Con Nhất
thầm thì xin một bản tình ca. Duyên vặn nút chữ. Tiếng máy sè sè chừng một tích tắc, Ba Con
Nhất nhả ra sau gáy một cuộn giấy . Duyên giở ra ngâm nga khe khẽ:
... Nghe em ! Đừng quên nhiệm vụ
Chớ mất lập trường
Trọn đời anh sẽ yêu em v.v...
Ngâm xong, Duyên áp bài thơ đó vào ngực và ngước mắt đắm đuối nhìn vào đôi mắt nẩy lửa của
Ba Con Nhất.
Lăng Quăng thấy sôi sục trong tim. ý nghĩ rùng rợn nẩy ra. Nhất định anh phải cho vài nhát dao!
Anh thò vô túi lấy ra con dao nhíp, mở ca hai lưỡi dao loang loáng sáng .... và anh tiến vào.
Duyên giật mình quay lại, hơi mỉm cười làm anh bối rối. Để lấy can đảm, anh bèn dõng dạc tuyên
án: "Cô có 3 điều đáng tội chết. Điều thứ nhất là cô cám dỗ "máy" làm tổn thương đến đạo đức
của "máy". Điều thứ hai là cô ăn ở bạc tình vô chung thủy, ấy là tội phản bội. Điều thứ ba là cô
giết chết một thiên tài là tôi, phương hại đến cái vốn quý nhất của xã hội "con người".
Duyên bình tĩnh đáp lại: "Tôi chết không đáng tiếc, chỉ tiếc là chết bởi tay người hèn. Anh có ba
điều hèn không đáng sống: Điều hèn thứ nhất là anh mang tiếng làm người mà thi văn thơ phải
chịu thua "máy", điều hèn thứ hai là anh đã ăn cắp cái tên của "máy" để được khen; còn điều hèn
thứ ba là anh định dùng dao hại người tay không mà người đó là một người đàn bà con gái ..."
Lăng Quăng ôm mặt khóc rưng rức và bỏ ra về. án mạng không xẩy ra, chỉ có lòng anh rớm máu
đau thương. (Thực Sự Duyên vẫn yêu anh nhưng vẫn phải làm thế để giáo dục người yêu).
Mấy hôm sau Lăng Quăng gặp ông Chủ tịch, xin rút lui nghề làm thơ, xin được chuyển công tác.
Nông trường đương thiếu chân quét chuồng ngựa. Ông Chủ tịch đã sắp xếp anh vào chân đó,
đồng thời cố an ủi khuyến khích anh. Anh làm việc cần cù nhưng đêm đêm vẫn thức khuya tiếp
tục làm thơ, những vần thơ ngậm ngùi nói lên :
... Những xót xa, những nước mắt khôn nguôi,
Những tiếng hát muôn chim,
Những phút trái tim cười,
Tôi chắp nối buồn vui mãi mãi,
(Dù em chẳng nghe tôi)
Tôi vẫn ca,
Lanh lảnh chuyện đời,
Lòng hằng tin : Người sẽ hiểu lòng tôi.
V. Đoạn kết rất công thức nhưng cần thiết.
Số là ... dù sao đi nữa thì "máy" vẫn chỉ là "máy". Khả năng của "máy" chỉ có hạn. Tâm hồn điện
tử của Ba Con Nhất dù được Nghiêm văn Túc nâng niu đến mấy đi nữa, cũng trở nên tầm thường
khô cạn và nhạt nhẽo.
Nông trường Con én đã bắt đầu ngấy những vần điệu nhai đi nhai lại mãi.
Những bài về thời sự chính sách của thi sĩ "máy" từ bài thứ vài nghìn trở đi được phóng thanh
sáng sáng, chiều chiều đã làm cho các bà già buồn ngủ, các ông già bực rọc bứt tóc vặt râu, các
cậu con trai bịt lỗ tai, các cô con gái thanh xuân thì nguyền rủa: "khổ lắm, biết rồi, cũ lắm rồi".
Còn cụ Hay Rượu thì chuếnh choáng vài ba tợp rượu, xông lại trước mặt Ba Con Nhất mà cà
khịa. Nghiêm văn Túc thì giở một quyển luật về "chống đánh nhau" ra can.
Cuối cùng cả nông trường kiến nghị lên ông Chủ tịch đòi quẳng Ba Con Nhất vào kho chứa đồ
đồng nát. Túc cố nêu thành tích Ba Con Nhất hòng cứu vãn quyền uy của "máy". Cả nông trường
phản đối Túc quyết liệt lại đòi quẳng cả cái tủ sách vở chứa trong bụng Túc đi nhân thể. Túc lấy
làm sợ hãi, vội chấp hai tay lên ngực rồi khóc trang trọng y hệt như bậc chân tu thấy mọi người
không hiểu nổi chánh đạo của mình.
Sau đó Nguyễn Linh Quang được trả về chức vụ thi sĩ cũ của mình. Nông trường giao cho cô
Duyên xuống chuồng ngựa đón. Cuộc tái họp diễn ra bao nhiêu mừng mừng tủi tủi.
Nông trường trở lại đời sống thực của con người. Bà con lại học thuộc lòng thơ Lăng Quăng,
những bài thơ rất "người", ca tụng tình yêu đất nước và yêu cuộc sống vĩ đại muôn mầu muôn vẻ.
Tin sau cùng: Những sự việc xẩy ra ở nông trường Con én đã tương tự xẩy ra ở một số nơi khác
(từng xử dụng sai lầm người máy) và cũng đi đến một kết luận công thức nhưng rất cần thiết như
đã kể lại ở trên đây.
Châm Văn Biếm
Tên thật là Ngô Huy Bỉnh, bút hiệu thường dùng: Như Mai
Báo Nhân văn, số 5, ra ngày 20-11-1956, đăng truyện
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét