Thứ Năm, 31 tháng 7, 2025

CHỮ TƯƠNG

 

ĐỖ CHIÊU ĐỨC giới thiệu 

            

Tạp Ghi và Phiếm Luận : 
                                            Chữ TƯƠNG
                      
                      Inline image

       Nói đến chữ TƯƠNG là người ta nghĩ ngay đến TƯƠNG TƯ 相思 là Nhớ nhau; và hễ nói đến TƯƠNG TƯ là người ta cũng nghĩ ngay đến trai gái hai bên thương yêu và nhớ nhau đến sinh bệnh, gọi là BỆNH TƯƠNG TƯ, là một cái bệnh trầm kha, nên thơ, đáng yêu và dai dẳng đến không có một lương y nào có thể chửa khỏi được cả ! Nhưng nếu chỉ có một bên thương nhớ phía bên kia; Nam thương nhớ nữ hay nữ thương nhớ nam thì là ĐƠN TƯ 單思, chớ không thể nói là TƯƠNG TƯ được. Vì Theo "Chữ Nho... Dễ Học" TƯƠNG 相 có nghĩa là "Nhau", như : Tương Thân, là Thân nhau; Tương Ái là Yêu nhau; Tương Tư là Nhớ nhau... Nên phải cả hai bên cùng thương yêu tưởng nhớ đến nhau thì mới gọi là TƯƠNG TƯ được ! Nhưng trong "Tập quán Ngôn ngữ" theo thói quen sử dụng hằng ngày mà mọi người đều chấp nhận; Hễ thương nhớ ai thì đều có thể nói là TƯƠNG TƯ người đó được cả, như : 
          - Hắn đang "Tương Tư" nàng nào đó.      
          - Bộ mày đang "Tương Tư" ai hả ?
          - Chàng ta đã "Tương Tư" cô ả đó rồi ! 

      Không phải chỉ có giới bình dân, mà cả trong văn chương thơ phú cũng đã quen dùng từ TƯƠNG TƯ để chỉ sự nhớ nhung đến người mình yêu dấu, như thi sĩ nổi tiếng thời Tiền chiến Nguyễn Bính đã viết :

                       Thôn đoài ngồi nhớ thôn đông,
                Một người chín nhớ mười mong một người.
                         Gió mưa là bệnh của Trời,
                  TƯƠNG TƯ là bệnh của tôi yêu nàng !

                      Inline image

     ... và thi sĩ Xuân Diệu với hai câu thơ toàn thanh bằng trong bài thơ Nhị Hồ là :

Thứ Tư, 30 tháng 7, 2025

LỜI HƯƠNG KHÓI

 

THƠ BÙI QUANG THANH 

bui_quang_thanh

      

LẼ RA, TÔI ĐÃ LÀ LIỆT SĨ KHÔNG MỘ, KHÔNG TÊN:
Ngày 27/7, ngày toàn dân tưởng nhớ đến các anh linh Anh hùng Liệt sĩ đã vì nước quên thân; tri ân những Bà Mẹ Việt Anh hùng và những người thương binh, bệnh binh đã hiến một phần sức lực, thân thể, máu xương của mình cho Đất Nước.
Lẽ ra tôi đã là Liệt sĩ không mộ, không tên trong rừng thẳm của đất nước Cam Pu Chia những năm 1972, những tháng ngày trong mặt trận Tây Nguyên ác liệt và gian khó.
Tháng 8 năm 1972, sau ba tháng sốt rét triền miên, tôi phải rời tuyến trước để tìm vê bệnh viện. Nơi tôi phải đến là Đội điều trị 25 mới từ Bắc vào, cách đó 2 ngày đường rừng. Lẽ ra có y tá đưa tôi đi nhưng do có một đồng đội lên cơn ác tính, y tá Tiến phải theo hộ tống cáng nên tôi đành lê gót một mình, chờ Tiến quay lại đón. Gần 3 ngày, hai đêm, tôi lê lết trên đường giao liên trên đất Natakiri miền đông bắc Cam Pu Chia, giữa thâm u vắng lặng, không có một mẩu lương khô, không còn một viên dinh dưỡng. Nước suối đổ đầy bi đông, nhặt những mầm lá chua làm thức ăn, khẩu AK47 đạn đã lên nòng, tôi vặt vẹo trên con đường vắng lặng, lần theo ám hiệu của giao liên mà đi về hướng tây.

Thứ Ba, 29 tháng 7, 2025

NHỮNG TẤM LÒNG VÀNG

 

TẢN VĂN BÙI THÚY LỤA 


      

NHỮNG TẤM LÒNG VÀNG
Tản văn của Bùi Thúy Lụa

   Hồi đầu tháng 3/2025, tôi đi khám bệnh định kỳ ở một bệnh viện gần nhà. Sau khi siêu âm, tôi được bác sĩ thông báo kết quả, khả nghi cao tôi bị ung thư tuyến vú. Bác sĩ yêu cầu tôi làm thêm một số xét nghiệm, để lấy kết quả chính xác hơn.   
    Cầm tờ giấy ghi kết quả trong tay, tôi thực sự hoang mang lo lắng vô cùng. Cả một đêm hôm đó, tôi bị mất ngủ. Sáng sớm hôm sau, tôi quyết định đi thẳng lên Hà Nội, vào bệnh viện K - Tân Triều. 
     Là lần đầu tiên đến Bệnh viện K, lạ lẫm làm tôi  rất lo lắng. Điều đầu tiên tôi ấn tượng nhất là đội ngũ Hướng dẫn viên ở đây rất nhiệt tình, chu đáo và có trách nhiệm. Nhờ vậy nên các khâu từ xếp hàng  lấy phiếu, đến vào phòng khám, tất cả đều dễ dàng hơn tôi tưởng rất nhiều. 

Thứ Hai, 28 tháng 7, 2025

Tôi có niềm tin và tự hào về sự phát triển của nước Việt Nam

 TS Vũ Hoàng Dũng, thứ nam của Giáo sư Vũ Văn Mẫu:

Tôi có niềm tin và tự hào về sự phát triển của nước Việt Nam

 
Thứ Sáu, 25/07/2025, 09:01
 

Tôi đã nhiều lần nghe đoạn băng ghi âm sự kiện lịch sử diễn ra tại Đài Phát thanh Sài Gòn vào buổi trưa ngày 30/4/1975. Lần nào cũng dâng trào niềm hân hoan non sông liền một dải… Và tôi chợt chiêm nghiệm, trong thời khắc trọng đại đánh dấu đất nước hoàn toàn thống nhất, có 3 người giữ vai trò chủ chốt tại Đài phát thanh Sài Gòn, thì một người miền Bắc là Giáo sư Vũ Văn Mẫu (Thủ tướng chính quyền Sài Gòn, quê Hà Nội), một người miền Trung là Trung tá Bùi Tùng (đại diện quân Giải phóng, quê Đà Nẵng) và một người miền Nam là Đại tướng Dương Văn Minh (Tổng thống chính quyền Sài Gòn; quê Mỹ Tho, Tiền Giang, nay là tỉnh Đồng Tháp). Phải chăng, đó là sự sắp đặt thú vị của dòng chảy lịch sử luôn cháy bỏng khát vọng hòa bình, thống nhất của dân tộc Việt Nam?

Chủ Nhật, 27 tháng 7, 2025

NGUYỄN VIỆT CHIẾN VIẾT VỀ TẬP KHÁT CHÁY

 

NGUYỄN VIỆT CHIẾN VIẾT VỀ TẬP KHÁT CHÁY 

       

       

Bài mới đăng trên Văn nghệ Công an hôm nay 24/7
THƠ NGUYỄN ĐỨC HẠNH-NGỌN LỬA TRỮ TÌNH KHÔNG AN YÊN
Nguyễn Việt Chiến
Nếu coi tên tập thơ là linh hồn thứ hai của tác phẩm thì hình ảnh người nghệ sĩ ‘cháy hết mình’ trong thơ Nguyễn Đức Hạnh, phải chăng là một tác nhân khiến anh đặt tên cho tập thơ mới nhất của mình in tại nxb Văn Học là ‘Khát cháy’. Cái tựa đề nghe khá dữ dội, từ ‘khát’đã mãnh liệt, lại ghép thêm từ ‘cháy’ khiến cảm giác như ‘bùng nổ’ ngay tức thì. Nó mang sắc thái Căng – gắt – không an yên, giống như một nỗi khát đến độ đốt rát ruột gan. Với người yêu thơ dịu dàng, tên này có thể bị xem là quá kịch tính, và hơi "bốc hỏa". Nhưng đây là một tựa đề vừa gợi cảm, vừa đầy năng lượng, và hay ở chỗ: bạn không cần chọn một nghĩa. Đặt tên như thế – nước đôi, gợi mở – sẽ để người đọc tự cảm, tự đo lường lửa trong tim họ. Những bài thơ trong tập này của Nguyễn Đức Hạnh đầy giọng điệu từ bùng vỡ đến hoài nghi, từ đắm say tới kiệt cùng trăn trở, và “Khát Cháy” theo tôi là một cái tên khá hợp, chắc chắn không phải là một cái tên nhạt nhòa. Nó có thể không an yên nhưng có lửa và thơ mà thiếu lửa, thì có gì đáng đọc.

Thứ Bảy, 26 tháng 7, 2025

THƠ ÁI NHÂN

 

THƠ ÁI NHÂN 

       anh_ai_nhan

ÁI NHÂN
Tên thật : Bùi Cao Thế
Hội viên hội VHNT Hưng yên
Hội viên hội Nhà Văn Hà nội
Cựu Chiến Binh Việt nam
Số 84 ngõ 27 long biên 1, đường Ngọc lâm, Long biên, Hà nội
TK: 10524096395016
Đt: 0984470914

 


Thơ TRI ÂN 27.7


Nhớ đồng đội
(Tặng đồng đội hy sinh ở biên giới)
*****
Giấc mơ nào dang dở dưới đất nâu?
Bên suối cạn, nơi rừng sâu hoang vắng
Người trở về quằn quại bao đêm trắng
Mê giật mình thảng thốt gọi tìm nhau
Mấy mươi mùa trái tim chẳng nguôi đau

Mộ đồng đội có xanh màu cỏ úa?
Ánh mắt hồn nhiên rập rờn sóng lúa
Hóm hỉnh cười bạn kể “chuyện quê choa”
Bốn mươi năm rồi khói lửa đã xa
Trong giấc ngủ tiếng pháo còn nhức nhối
Mù mịt đất trời, xác xơ cây cối
Đá toác lòng, nghi ngút khói “lò vôi”
Tháng bẩy về nhớ lắm các anh ơi!
Miền biên ải ngút ngàn sim mua tím
Gái bản Nà Van nụ cười chúm chím
Mắt bạn sáng ngời dõi mãi đường biên
________
(Bản Nà van thuộc huyện Lộc Bình – Lạng Sơn)


Đồng đội tôi trẻ lắm
(Tặng đồng đội tôi )
*****
Đồng đội tôi những chàng trai rất trẻ
Chất phác, chân quê, mộc mạc, khiêm nhường
Mười tám tuổi lên đường cầm súng
Nguyện lòng giữ đất nước quê hương
Có chàng chưa có người thương
Hóng hớt chuyện yêu, ngủ mê gái đẹp
Hầm chặt úp muôi chẳng lo rộng hẹp
Mộng trăng sao mơ mấp máy môi cười
Có mối tình thầm vẫn vời vợi tin yêu
Đọc trang Kiều ngỡ mình là Từ Hải
Lội suối trèo non không hề ngần ngại
Ngắm sao trời da diết nhớ quê hương
Những chàng trai hiền lành đi giữ biên cương
Một dạ trung trinh kiên cường như đá
Máu, mồ hôi các anh gieo lên bạt ngàn hoa lá
Viết lên bản anh hùng ca Tổ quốc trường tồn

Giấc mơ tôi
 Tặng đồng đội tôi hi sinh ở biên giới
 ___________________
  Trong giấc mơ tôi bạn về với tay xin ngụm nước
Mắt quầng thâm những ngày thiếu ngủ
Nắng cháy thịt da
mưa dầm thũng nước
những vết sước trên vai trên cổ 
loang lổ chiến hào pháo địch đêm qua
Đầu bạn quấn băng thương loang máu
Chân lê chẳng chạm đất vẫn cười:
“Chúng mày về miền xuôi
Nhớ nói với mẹ tao rằng tao còn ở lại
Giữ biên cương mãi mãi vẹn toàn”
“Nói với cô gái nhà bên thường sang giúp mẹ
“Rằng tao không yêu đâu, nàng hãy lấy chồng”
Lời nói dối của bạn tôi từ đáy lòng chân thật
Mưa xối chiến hào
Mắt bạn rưng rưng…
Hơn ba mươi năm rồi xa cuộc chiến tranh
Pháo vẫn nổ trong từng giấc ngủ
Khói súng mịt mù vẫn vương mùi khét lẹt
Máu bạn tôi còn ấm dưới tay mình!
Hơn ba mươi năm rồi sau cuộc chiến tranh
Lệ đã cạn hết rồi trong mắt mẹ
Những Người lính - đồng đội tôi rất trẻ
Những linh hồn im lặng giữ biên cương
 Những cột mốc trên đường biên - bia mộ
Chứng nhân lịch sử hào hùng
Nơi máu xương, đồng đội tôi đổ xuống
Cho đất nước thanh bình vĩnh viễn mùa xuân

ÁI NHÂN



Thứ Sáu, 25 tháng 7, 2025

NGUYÊN BÌNH giới thiệu KHÁT CHÁY

 

NGUYÊN BÌNH giới thiệu KHÁT CHÁY 

       


        

Nguyễn Đức Hạnh.
KHÁT để biển khơi và CHÁY để mặt trời!

Tự ngẫm rồi thương mình từng múa may theo tiếng kèn hư danh
Tâm biển khơi hóa ao tù, thi tài mặt trời thành đom đóm. (Nguyễn Đức Hạnh).
Tác giả tập thơ Khát cháy là Nguyễn Đức Hạnh, Phó Giáo sư, Tiến sĩ ngành Ngữ văn, Nhà giáo Ưu tú. Ông là nhà nghiên cứu - phê bình văn học với nhiều công trình có giá trị. Xin trích đoạn giới thiệu về ông trong bài tựa của nhà văn Nguyễn Tham Thiện Kế:
“Luận văn tiến sĩ “Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ 1965 – 1975 nhìn từ góc độ thể loại” sau nối thêm công trình “Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Chu Lai” và “Văn học địa phương miền núi phía Bắc”. Ông còn hướng dẫn hàng chục sinh viên làm luận án thạc sĩ, tiến sĩ…Từ 2000 đến 2022 riêng với thơ, Nguyễn Đức Hạnh in 4 tập “Núi khát” – NXB Hội nhà văn năm 2000, “Vết thời gian” – Sở văn hóa thể thao Thái Nguyên, năm 2014, “Khoảng lặng”, NXB Đại học Thái Nguyên, năm 2016 và “Thấm”, NXB Hội nhà văn năm 2020. Năm 2022, vị giáo sư trình bạn đọc tập truyện ngắn “Tiếng chuông chùa Tử Đằng”, sách do NXB Hội Nhà văn ấn hành” (Hết trích)
Năm nay, 2025, Ông vừa xuất bản tập thơ song ngữ Khát cháy (NXB Văn Học, 2025) với 95 bài, dịch giả - nhà thơ Võ Thị Như Mai chuyển ngữ tiếng Anh, nhà văn Nguyễn Tham Thiện Kế viết đề tựa.
Tôi vinh hạnh được ông tặng sách và ưu ái đề tặng bài thơ Đom đóm, một bài thơ mang tính triết luận sâu sắc. Tôi đọc chậm Khát cháy (theo lời của nhà thơ Nguyên Hùng) và dành khá nhiều thời gian để lật dần từng quân bài cách tân đầy thách thức. Có thể xem Khát cháy là biểu hiện dũng khí của một cây bút trí thức sau bao năm chiêm nghiệm về triết lý và học thuật xã hội đương đại. Nền học thuật đã và đang trải qua thời kỳ sóng gió, xáo động tận gốc rễ nền tảng tư tưởng, phương pháp luận. Trong môi trường đó, ông âm thầm và kiên quyết định hình một phong cách sáng tác thơ của riêng mình.
1- Trong Khát cháy, thi tứ, thi ảnh, ngôn ngữ thơ có sự giao thoa rất lạ: vừa mộc mạc chân thực vừa siêu thực. Sự giản dị đồng hành cùng ánh sáng soi chiếu vào chiều sâu đối tượng.
Sự chân thật và giản dị trong ngữ ngôn Khát cháy là những viên gạch rắn rỏi, thô ráp mà vững chắc tạo nên sự bứt phá cho nền tảng thơ mới mẻ đầy cá tính mà ông đang cách tân. NĐH mạnh dạn gạt bỏ hình thức tu từ cổ điển, xóa nhoà miền tâm thức ao tù cũ kỹ, xây dựng một phong cách sáng tác tự do, độc lập, ở đó ông thỏa sức sáng tạọ. Có thể nói, Khát cháy làm nên một NĐH, một tác giả mới, người luôn nuôi dưỡng trong trái tim nguồn cảm hứng từ hình ảnh gần gủi, dân tộc và đậm sâu, xa lánh những khoa trương đao to búa lớn. Với học hàm của mình, ông dư thừa những kiến văn kinh điển nay đã sáo mòn. Ông đã chọn hình ảnh và ngôn ngữ bình dân nhất: Nhà dột mang hết xoong nồi ra hứng / Mẹ hứng bằng đôi mắt trũng sâu / Mưa đong đầy rồi tràn ra ngoài mắt mẹ / Ướt sũng con đang ngắm ngọn đèn dầu. (Mẹ ơi con nhóm lửa rồi). Giản dị như nhà nhà đem xoong nồi hứng khi mưa dột, mỗi câu thơ nhìn đơn sơ mà đấy ắp những khám phá bất ngờ. Những khám phá này đậu lại trong từng mảng không gian hiện thực lẫn siêu thực, tạo độ nén và ám gợi mạnh mẽ người đọc trong suốt tác phẩm. Ông dễ dàng phát hiện và nắm bắt động thái bên trong của dòng ý thức. Đơn giản mà không dễ dãi để kiến tạo những câu thơ sâu lắng thoát thai từ tâm hồn nhạy cảm và đôn hậu: Mưa đong đầy rồi tràn ra ngoài mắt mẹ trong khi Ướt sũng con đang ngắm ngọn đèn dầu. NĐH thong thả lấp đầy không gian thơ đối xứng xoay quanh cơn mưa bằng quan sát tinh tế, bằng cảm xúc, bằng chính biểu hiện hy sinh thầm lặng của Mẹ và niềm ngây ngô của chú gà Con trong đôi cánh thiên thần.
2- Miền suy tưởng chứa đựng thiền triết phương Đông đã ngấm sâu vào bản nguồn tư tưởng học thuật đồng hành cùng sự ngưỡng vọng tâm linh.
Mời các bạn thưởng chén Trà Tân Cương của nhà thơ Nguyễn Đức Hạnh. Xin nói thêm một chút, điều thú vị là ông lớn lên và thành danh tại xứ Trà huyền thoại này:
Trà thơm làm em thơm hay ngược lại ?
Nhắm hờ mắt chạm môi vào trầm tích
Những ban mai vỗ cánh gọi mời
Tựa mặt trăng nhìn trời
Nghe trà kể trăm năm hừng hực
Những phận người lá rách
Chụm về đây thành rừng
(Trà Tân Cương)
Chúng ta hãy thử làm một phép tích phân về nghệ thuật, tính triết luận và sự ám gợi trùng điệp trong thơ NĐH, (dù thơ luôn là đối tượng chỉ để cảm): “Trà thơm làm em thơm hay ngược lại?” Một câu hỏi tưởng chừng đơn sơ, nhưng lại chứa đựng quá trình chiêm nghiệm về bản thể và tác động hổ tương giữa con người và sự vật. Trà thơm vì người thưởng thức? Hay người trở nên thơm nhờ trà? Câu hỏi gợi mở một nghịch lý vừa mang màu sắc triết học phương Đông, vừa gợi nhắc đến sự hòa quyện giữa người và vật, giữa cảm và cảnh – không tách rời, như cụ Nguyễn Du đã từng “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Tôi ngỡ ngàng đến bàng hoàng với “Nhắm hờ mắt chạm môi vào trầm tích”. Theo tôi đây là một câu thơ đẹp, cả tứ lẫn từ. Việc thưởng trà được NĐH miêu tả bằng một sát na thiền định, một tâm thế tiếp cận sâu lắng hài hòa với dòng chảy thời gian ("trầm tích"). Nó hàm ẩn triết lý về việc sống chậm, lắng sâu, chạm đến tầng đáy lịch sử, ký ức, văn hóa của một tách trà – một thứ tưởng như đơn giản nhưng ẩn giấu cả "trăm năm" của “Những phận người lá rách” đổ mồ hôi và nước mắt cho tách trà thơm hôm nay. Trong câu thơ “Những ban mai vỗ cánh gọi mời” nhà thơ dùng thủ pháp nhân hoá, ẩn dụ cho những khởi đầu, thúc đẩy tinh khôi vỗ cánh, mở ra khả năng liên tưởng vô biên, nơi con người tìm về sự trong trẻo nguyên sơ. Trong trẻo là một khát vọng của nhà thơ. Ông đã dùng từ này với tấn suất rất cao. Qua thơ NĐH, Trà không còn là một vật thể nữa, mà trở thành biểu tượng của văn hoá, của thời gian, của thiền, và của con người trong trạng thái tĩnh tại và sâu lắng. Ngưỡng vọng tâm linh kín đáo cũng được tác giả chạm đến trong một số bài với hình ảnh cháo Lú, canh Mạnh Bà, cầu Nại Hà v.v.
Bốn câu thơ nói trên là một ví dụ đặc sắc cho thơ thiền hiện đại – nơi triết lý sống tối giản, sâu sắc. Tác giả không giải thích, không lý luận, mà gợi, để người đọc tự chiêm nghiệm. Mặc dù gợi mở như thế nào cũng không hề là chuyện dễ dàng trong sáng tác thơ
3- Tâm thế hụt hẫng đớn đau và chất ngất hoài nghi khi cọ xát với nghịch cảnh giũa đời thường được giải mã bằng tình yêu.
Thôi đừng tìm chìa khóa nữa em
Mưa như ngàn dây câu thả xuống sông thổn thức
Đắng cay và ngọt ngào có thực
Như gạo trong nồi như lửa bếp chiều nay..
….
Những đứa con hóa thân làm khóa
Khóa cửa căn nhà gặp bão lung lay.
(Những chiếc khóa trên cầu tình yêu)
“Thôi đừng tìm chìa khóa nữa em” Một tiếng thở dài. buông xuôi, như lời cuối cho một cuộc tình, chất chứa nỗi mỏi mệt của một người đã cố gắng triền miên để “mở khóa” tìm đến sự hướng thiện tốt lành: tình yêu, cuộc đời, hay chân lý. Chiếc khóa mang tính biểu tượng của niềm tin bị giam cầm, là quá khứ bị đóng kín, hay là cách con người cố níu giữ điều không thể. “Thôi đừng tìm nữa” – Ôi! con người vỡ mộng nhẹ hẫng nhưng đau đớn lắm thay. NĐH và chúng ta đã từng hy vọng, từng tin yêu, nhưng nay đã mỏi gối vi bộ mặt xã hội biến đổi, đen trắng nhập nhòa. Khiến ta Khát. Ta muốn mưa, ta muốn “Tâm biển khơi” nghìn trùng sóng vỗ. Thế mà “Mưa như ngàn dây câu thả xuống sông thổn thức”. Có thể nói đây là ẩn dụ tinh tế về những niềm luyến tiếc, níu giữ, tìm kiếm điều gì đó sâu kín – nhưng lại thả xuống một “ sông thổn thức”, thả xuống bờ vực nội tâm không yên bình. Dòng đời cuộn trôi, giằng xé. Màn mưa trở thành chiếc lưới hiện sinh bủa vây, úp chụp cả bầu trời, gợi cảm giác nhân gian bị nhấn chìm trong nỗi đau không thể gọi tên. Tuy vậy, chúng ta sẽ bất ngờ khi đọc câu cuối. Sự độc đáo, đặc sắc nhất nằm ở kết bài: Những đứa con lại là những chiếc khoá tình yêu kì diệu nhất. Sự khác biệt là ở đây.
Có nhiều điều bay theo khói
Rừng như Mẹ bao dung mà tội nghiệp
Đất như Cha khắc khổ kiệt cùng
Cha Mẹ không nói
Chỉ nỗi buồn đá tảng lăn xuống suối thật trong
Vâng, trên thế gian này có nhiều khát vọng tan thành mây khói. Câu thơ như một sự thở dài nhẹ tênh mà đầy hoài nghi và bất lực: Rừng như Mẹ bao dung mà tội nghiệp / Đất như Cha khắc khổ kiệt cùng”. Cảm thức đồng hóa thiên nhiên – rừng – đất với đấng sinh thành, gợi lên tình cảm nguyên sơ, thiêng liêng. Nhưng ở đó, những từ ngữ “tội nghiệp”, “kiệt cùng” lại thể hiện sự tổn thương tận gốc rễ, không chỉ ở cá nhân tác giả mà còn là nỗi đau văn hóa của nhân loại, khi môi sinh bị tàn phá tàn nhẫn. Tác giả không chỉ đau cho mình, mà còn đau cho đất – cho Mẹ thiên nhiên. Nhà thơ thảng thốt buông lời phản tỉnh mang tầm vóc thời đại. “Cha Mẹ không nói / Chỉ nỗi buồn đá tảng lăn xuống suối thật trong”
Phải chăng, một trí thức từng tin tưởng, từng khao khát, nhưng hạt gạo đã giần sàng qua bao trải nghiệm sống – đã an vị ở một điểm lặng của suy tư. Họ không còn gào thét hay than vãn, mà chấp nhận sự đắng cay – ngọt ngào, sự tan biến – vô thường.
4. Khát để biển khơi và Cháy lên để mặt trời
Từng giây cháy kiệt cùng kệ mai tan nát
Ghì kiệt cùng như thuỷ triều lên
Thả bài thơ đắm vào đáy nhớ
Nghìn năm sau Dã Tràng khóc đi tìm.
(Trước biển)
Theo tôi nghĩ, NĐH đã sống trọn từng khoảnh khắc bằng tất cả nội tâm, đam mê và khát vọng, tự “cháy” lên không chừa lại điều gì cho bản thân. Ông đã “Ghì kiệt cùng như thủy triều lên” bằng thức tỉnh nội tâm mạnh mẽ. Đây là sự “khát”: khát sống, khát yêu, khát biểu đạt, khát đến mức dồn nén và dâng trào. Cho dù chỉ để “Nghìn năm sau Dã Tràng khóc đi tìm”: phải chăng là nỗi khát khao vô vọng. Nhưng ngay cả khi vô vọng, tâm thức khát và cháy vẫn không ngừng hiện diện lấp lánh đâu đó trong thơ . Ông “cháy” đến tận cùng để tìm đến mặt trời và “khát” để tâm thức hóa thành biển khơi.
Chúng ta tiếp tực hành trình khám phá thơ NĐH trong khổ thơ dưới đây. Dĩ nhiên không để làm rõ luận chứng của tiêu đề mà cảm thụ chân thực thơ ông.
Người cũng tự chữa lành như cây
Khúc ca trắng trên đầu, sần trên tay, đỏ tươi trong ngực
Cúi xuống nâng bầm dập sợi tóc trắng rơi vào Hướng dương cháy rực
Em đi chợ về. Nụ cười nở thành đóa hồng nhung.
Tôi thực sự tâm đắc với “Sợi tóc trắng rơi vào Hướng dương cháy rực”: đó là tàn phai và bung lụa, quá khứ và hiện tại đan kết thành một bức tranh sáng rực. Hướng dương tìm ánh sáng suốt ngày hướng về phía mặt trời, Đó là niềm hy vọng, là vẻ đẹp của chân lý. Để “Nụ cười nở thành đóa hồng nhung”. Phải chăng thơ là hành trình đi qua đau thương để hồi sinh.
Nguyễn Đức Hạnh khá thành công khi gieo vào lòng người đọc một ngọn lửa tâm hồn vừa âm ỉ vừa bùng cháy, một nỗi khát không bao giờ dừng lại. Bởi, Khát là tiếng gọi từ sâu thẳm tâm hồn và Cháy là bản chất sống mãnh liệt.
Để kết thúc bài viết, tôi (NB) xin mượn lời nhà thơ, cũng là nhà phê bình văn học Mai Văn Phấn đúc kết tác phẩm này trong bài viết:
Nguyễn Đức Hạnh. Phân mảnh để tỏa sáng: "Khát cháy" là minh chứng rõ nét cho khả năng dung hợp giữa trực giác nghệ sĩ và chiều sâu tư duy học thuật – sự kết tinh của kinh nghiệm sống, khả năng chiêm nghiệm và tinh thần sáng tạo không thỏa hiệp. (Mai Văn Phấn ) Hết trích.
5. Những khổ thơ hay Nguyên Bình chọn lọc và giới thiệu
Còn lửa không? Cố nhóm lửa
Hòn đá yêu thương đập vào sỏi hi vọng
Thắp lên ngọn đuốc cuối cùng
May còn lệ em bốc cháy
Bỏng âm thầm trong im lặng mênh mông.
(Giấc mơ chiều)
Không có ai đợi vẫn muốn về Khau Vai
Lệ đã chảy thành sông tiếng gọi
Thơ là loài cây uống nước mắt mà xanh
Là ống sáo câm chờ người thổi...
(Tháng ba này ai có về Khâu Vai)
Mây Phú Yên toàn mang hình thiếu nữ
Sóng biển xanh mặn đến kiệt cùng
Nhúng mình vào trong ướp mình vào mặn
Gọi tên em rừng biển hát ngập ngừng
(Tạm biệt Phú Yên)
Quang Dũng trên sông. Thác thành tóc sóng thành râu loã xoã
Bài thơ Tây Tiến thành áo khoác vai. Bước từ hoàng hôn đến ban mai
Những vụn thơ rơi hoá cá Anh Vũ
Cắn bóng thi nhân ngậm ngùi
(Gặp Quang Dũng hát trên sông Mã)
Có những đêm rực bờ xưa sao sáng
Trẻ con nhốt vào lọ đem chơi
Những mảnh vỡ của bao mơ ước
Nhớ hay quên? Nhoi nhói những mắt người.
(Đom đóm)
Sông ôm người bằng sóng. Người ôm sông bằng mắt
Sóng tan rồi sao mắt không tan?
Mắt nhuộm sông. Thay màu từng khoảnh khắc
Em nhuộm tôi. Biền biệt gió - hoa vàng...
(Thơ tình cho ai nói ít ngẫm nhiều)
Thơ nói to và thơ nói thầm
Quảng trường thích thét gào. Ai là người lặng lẽ?
Quá nửa đời đi giữa hai trang viết
Gặp hai nhà phê bình một tai thính một tai điếc
Cả hai cười vu vơ…
(Những loài nói thầm thường đau sâu)
Tháng ba mắt nâu
Em đi về đâu?
Còn một ngụm trong lành không nỡ uống
Ngậm trong ngực. Chẳng biết được bao lâu?!
(Tháng ba mắt nâu)
Khu vườn ru căn nhà ngủ
Bao loài cây vẫn thức đợi chờ
Những quả chín như mặt trời xấu hổ
Sưởi môi nhau ngọt đến sững sờ.
(Nói với em khi tóc bạc)
Thi sĩ là con cá dị biệt biết hát
Làm sao không cô đơn?
Mắt không chớp suốt trăm năm
Cát đâm vào nên hay khóc
(Ngắm bầy cá mà nghĩ)
Bà Rịa, ngày 22 tháng 7 năm 2025
tho-bien-dem
 

Thứ Năm, 24 tháng 7, 2025

VỀ MỘT TRUYỆN NGẮN GIẢI NHÌ

 

VỀ MỘT TRUYỆN NGẮN GIẢI NHÌ

      hoa_sung_1

Hà Thanh Vân
Blog cá nhân
 
Bài viết sau đây là quan điểm của cá nhân tôi. Tôi không nhân danh cho ai hay cơ quan, tổ chức nào để viết. Tôi tôn trọng mọi ý kiến trái chiều và không có ý định tranh luận lại.
“CÁI GÌ ĐÂY KỲ NÀY”: VỀ MỘT TRUYỆN NGẮN VỪA ĐOẠT GIẢI NHÌ CỦA BÁO VĂN NGHỆ (PHẦN 1)
(Hà Thanh Vân)
Sau thành công của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, người – mà - ai – cũng - biết - là - ai - đấy (nói vui kiểu Harry Potter chút), có hẳn một “trào lưu” viết theo kiểu của chị Tư. Tất nhiên là cũng có những tác giả thành công, song theo đánh giá của cá nhân tôi, chưa ai vượt qua được Nguyễn Ngọc Tư, thậm chí còn xa mới theo kịp. Còn những phiên bản lỗi, hỡi ơi, thì lại có cũng khá nhiều.
Vừa rồi báo Văn nghệ mới công bố giải thưởng Cuộc thi truyện ngắn 2022 – 2024, tôi bèn ngồi đọc thêm và đọc lại những truyện ngắn có giải. Để minh chứng cho một phiên bản lỗi khi viết về miền Tây Nam Bộ theo kiểu Nguyễn Ngọc Tư, thì trong những tác phẩm đoạt giải có ngay một truyện ngắn hết sức là tiêu biểu. Đó là truyện ngắn “Trăm Ngàn” của tác giả N.T.N. Truyện ngắn này được giải nhì (không có giải nhất) của báo Văn nghệ.