TẢN MẠN VĂN HÓA VĂN NGHỆ VÀ … VĂN GỪNG (3)
Nạn “cuồng dịch” hay phương pháp dịch “hậu google” (1)
Nhân đọc những phần dịch Anh – Việt trong tập sách Tư tưởng triết học (nxb Hội Nhà văn, 2015) và phần Lịch sử nghệ thuật trong tập 2013 VCL Tranh vẽ Võ Công Liêm (nxb Hội Nhà văn, 2013) của Võ Công Liêm
Nguyễn Thanh Văn
Khi mới đọc xong cuốn Tư tưởng triết học của ông Võ Công Liêm, tôi có dự định chia bài viết thành ba phần. Đầu
tiên là nhận xét phần dịch mà tác giả kê đủ cả phần tiếng Anh và tiếng
Việt, tiếp là vài suy nghĩ về loại tiếng Việt đặc thù trong tập
tiểu luận và cuối cùng bàn nội dung triết học được trình bày những 250
trang. Và cuối cùng của cuối cùng, là nhân đọc tập sách, không
thể không bàn qua hiện tượng “triết luận” của số người do không cưỡng
được tình yêu đã đạt độ mù quáng với Triết học
để “triết luận” lại trở thành “triết loạn” – điều mà Võ Công Liêm làm
rất tốt qua công trình Tư tưởng triết học này.
Tuy nhiên sau khi lượng sức, người viết có ý “nhường” phần thẩm định nội
dung triết học cho giới chuyên môn và chuyển phần nghiên cứu và thẩm
định thứ tiếng Việt hiện đại – tạm gọi là tiếng-Việt-Hậu-Googles – mà
tác giả do ở nước ngoài khá lâu đã mạnh dạn phát
minh, qua cho các giáo sư có lòng quan tâm tới sự nghiệp “bảo vệ sự
trong sáng của tiếng Việt” và các phóng viên giữ mục “Dọn vườn” trên các
báo Văn nghệ và tạp chí Ngữ học. Đối với những bậc trí tuệ hơn người bao quát nhiều ngành, nhiều vỉa như Võ
Công Liêm thì sự phân công thành nhiều phần việc cụ thể như tôi gợi ý hy vọng cũng hợp lý. Mỗi
người mỗi mảng, phần còn lại vừa sức tôi, một ông giáo chuyên sửa các
lỗi spelling và grammar cho các học viên Anh Văn bậc sơ học vậy.
Ngoài cuốn Tư tưởng triết học này, tôi dành vài dòng nhắc qua phần Lịch sử nghệ thuật trong tập 2013 VCL Tranh vẽ Võ Công Liêm và cũng chỉ giới hạn trong phần dịch Anh – Việt.
VỀ CUỐN TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC
Nhiều bài trong cuốn này thực chất là dịch. Tôi không đủ sức đối chiếu
toàn bộ bài viết với tác phẩm gốc, mà chỉ giới hạn trong những chỗ tác
giả có dẫn nguyên văn.
– “Năm 1940 sau khi cho ra đời luận án Tâm lý và hình tượng (The Psychology of the Imagination) như một hiện tượng tâm lý […]” (trang 41, bài Hiện hữu và hư không)
Nhận xét: “Of” là “của”, có khi dịch là “về”, có văn cảnh không cần dịch, vì sao lại chuyển thành “và”?“Và” là liên từ nối hai từ, hai mệnh đề, hai ý … ai cũng rõ. Chia cụm danh từ “the psychology of the imagination” thành hai vế bằng liên từ
“và” vừa làm hỏng nghĩa vừa phạm lỗi tùy tiện. Người dịch nhầm một lỗi không đáng, “imagination” là “tưởng tượng” thành “hình tượng” (image).
– “Phải thừa nhận rằng Kant là người đầu tiên giới thiệu đến với chúng
ta những gì thuộc phê bình triết học (the critical philosophy)” (trang
58, bài Kant – một lối phê bình triết học)
Nhận xét: Những bạn đã quen với Kant và triết học Tây phương đôi tí, hẳn
đã nghe tới khái niệm “triết học phê phán”, thì chính cái “critical
philosophy” này đây. Ngay một người phải tra tự điển mới hiểu
nghĩa hai từ “critical” và “philosophy” nhưng chưa
quên thầy cô môn Anh văn giảng rõ trật tự từ (the order of words) trong
danh từ kép (compound nouns) thì chắc chắn mò mẫm dịch được là “triết
học phê phán”, “triết lý phê phán”, “triết học phê bình”, tệ lắm cũng là
“triết học chỉ trích” … không đến nỗi cho
ra sản phẩm ngược ngạo “phê bình triết học” như Võ Công Liêm. Một
người có trình độ ngữ pháp Anh văn kiểu này nhất định sẽ dịch “garden
flower” (hoa vườn) thành “vườn hoa” và sẽ có một câu tán tỉnh lãng mạn
kiểu “Anh hứa mỗi buổi sáng sẽ mang một vườn
hoa tới tặng yêu dấu của lòng anh” ra đời – hẳn phi Hercules không ai
kham nổi một tấm ái tình nặng nề đến thế!
– “Ở vị trí khác khi Kant viết: Giấc-mơ của một Tinh-thần-Tiên-đoán/ Dreams of a Spirit-Seer (1976) được mô tả như một phần đối xử thuộc tinh thần hình ảnh” (trang 68, bài Kant – một lối phê bình triết học)
Nhận xét: “Phần đối xử thuộc tinh thần hình ảnh” mang âm hưởng của thứ
tiếng Việt hậu hiện đại thì chịu, không dám hỏi dịch giả, e phải nghe
một câu giải thích khó hiểu hơn nữa. “Spirit-seers” nghĩa là nhà tâm
linh, pháp sư, có khi dùng với ý giễu cợt như thầy
cúng, thầy mo trong tiếng Việt. Tôi chưa có hân hạnh đọc tác phẩm này, khó xác định ý positive hay negative. Đại khái tạm dịch là “những giấc mơ của nhà tâm linh” hoặc “mộng mị của ngài thầy cúng” tùy văn cảnh. Mong sự chỉ giáo của các
anh chị và các thầy. Không rõ Võ Công Liêm định làm ăn chi với khái niệm “một tinh thần tiên đoán” vừa sai vừa kì dị.
– “[…] điều đó gọi là tri thức hiểu biết (understand intuitively) …” (trang 95, bài Chủ thể tâm lý qua tư duy của Martin Heidegger)
Nhận xét: Không rõ sao ý sờ sờ ra là “hiểu theo/bằng trực giác” lại thành “tri thức hiểu biết”? Để phân biệt với loại “tri thức không hiểu biết”?
– “[…] Nietzsche thốt lên lời tuyệt vọng cùng thời của ông: Lương tri
tôi và cả chính bạn không còn lâu dài như một ý thức lương tri (My
conscience and yours are no longer the same conscience)” (trang 128,
bài Hư vô qua tư duy triết học)
Nhận xét: Người dịch đã chứng minh khả năng dịch nổi một ý văn xuôi
thành một câu thơ khá kêu! Không rõ nỗi tuyệt vọng của nhà triết học Đức
có trầm thống bằng nỗi tuyệt vọng của người lỡ đọc tiểu luận của người
đồng nghiệp Võ Công Liêm của ông ở Việt Nam hay
chăng? “No longer” nghĩa như “no more” là “không còn”, “không còn … nữa”, có phức tạp chi mô. Nghĩa đại khái “Lương tri của tôi và lương tri của các bạn không còn giống nhau nữa/không phải là một”. Có
cần chỉnh ý Nietzsche thành một câu
thần chú Giao Chỉ u u minh minh như gợi ý của Võ Công Liêm không! Một
lỗi cần chú ý nữa khi bản gốc là “yours” thì không dịch là “cả chính
bạn” được, mà phải kèm đối tượng sở hữu (conscience/lương tri) để tránh
dạng so sánh kiểu “con trâu của tôi mập hơn (con
trâu) anh”.
Sau đây tôi dẫn một số câu có độ dài hơn và phần dịch, khách quan mà nói, có khó hơn đôi tí, nhưng không đáng gọi là phức tạp.
– “Whoever writes in blood and aphorism wants not to be read but to be
learned by heart” (Friedrich Nietzsche) được Võ Công Liêm dịch là “Bất
luận là ai có viết bằng huyết lệ và những mong muốn của cách ngôn, ngạn
ngữ vẫn không màng đọc tới nhưng đó là trí
tuệ cao siêu viết bởi tấm lòng chân” (trang 86 và 93, bài Nietzsche – sự thực và viễn tượng của cuộc đời)
Nhận xét: Võ Công Liêm tệ hại tới nổi không hiểu “wants” là động từ – chia ở ngôi thứ ba số ít (thì simple present) nên thêm “s”. Chuyển thành “những mong muốn” là vì người dịch nhầm nó (“wants”) là một danh từ. Cái cần ghi nhớ đầu tiên khi dịch
là nhớ đừng dịch sót ý gì có trong bản văn gốc, và “đừng dịch” ý gì không hề có. Bỏ
ý “đừng dịch” trong dấu kép là vì đã không có trong bản gốc thì lấy gì
mà dịch! Ý “Trí tuệ cao siêu” chỉ có trong đầu dịch giả, không tìm thấy
đâu trong câu tiếng Anh. Đến
“learned by heart” mà hiếm có học sinh nào không hiểu, nghĩa là “học
thuộc lòng”, “khắc trong lòng”, “ghi nhớ” mà dịch cho được là “bởi tấm
lòng chân” thì bất nhẫn quá.
– “[…] chúng ta đi tới tuyệt vọng (gone) vào cái hoang vu, khô khan của
sa mạc, NHẢY PHỎNG LÊN [tôi nhấn mạnh – NTV], thay vì luôn luôn thông
thạo điều đó, một tri giác nhạy bén để cảm nhận vấn đề một cách thấu
suốt, tường tận; điều đó gọi là tri thức hiểu
biết (understand intuitively) … và Đấng Thượng đế hãy xem như là
cây nhân sinh lớn lên ở giữa bụi cây trong vườn – và chính là cây nhận
thức của sự tốt và xấu”.
Phần tiếng Anh người dịch dẫn ngay dưới phần dịch ở trên: “We have gone
into the aridity of the desert, hoping, instead of always ‘knowing’
things, to intuit understandingly and to ‘understand intuitively’ and
the Lord God let the ‘tree of life’ grow up ‘the
middle of the garden’ – and the tree of knowledge of good and evil”
(trang 95, bài Chủ thể tâm lý qua tư duy của Martin Heidegger)
Nhận xét: Đoạn văn đáng xem tiêu biểu cho trường phái dịch thuật mang tên Võ Công Liêm. Trên, theo dạng dịch của người không biết thế gian còn một thứ gọi là từ điển. Dưới, là phương pháp vừa bấm Google vừa chép. Ý “tuyệt vọng” không có
trong bản gốc và từ “gone” thêm trong bản dịch để giải thích nghĩa “tuyệt vọng” là hoàn toàn sai. Nếu
biện minh cho dịch giả thì chỉ có thể nói rằng từ “tuyệt vọng” ngầm chỉ
cái khả năng dịch quá liều lĩnh của chính Võ Công Liêm đấy thôi. Cụm
từ “NHẢY PHỎNG LÊN” in chữ lớn để lưu ý Võ Công Liêm đã không nhận ra
nghĩa “hoping” là hy vọng (hoping … to intuit), không phải nghĩa “nhảy
cẫng lên/nhảy lò cò”, nếu tác giả có ý dùng từ “nhảy” này (hop/to hop)
thì dạng động từ tương đương phải là “hopping”. Có
thể đoán Võ Công Liêm cho rằng sự nóng của sa mạc ắt dẫn tới phỏng chân và tất nhiên phải “nhảy phỏng lên” thôi. Rất
tiếc dịch thuật là chuyện kiến thức về từ ngữ, ngữ pháp và chuyện văn
hóa cùng kinh nghiệm dịch, không liên quan tới sự bốc đồng và
chuyện bói toán. “The middle of the garden” thì nghĩa “giữa
vườn” quá rõ, người dịch hẳn suy ra vườn tất phải có cây, có bụi rậm bèn
vẽ vời thành “giữa bụi cây trong vườn”. Riêng “understand intuitively” thì tôi đã lưu ý ở trên.
Phần trích tiếng Anh không hoàn toàn chính xác – trước “the middle of
the garden” có từ “in” mà Võ Công Liêm hay người đánh máy bỏ sót.
– “Descartes đã viết trong phần mở đầu: Tôi không thể thúc bách mọi
người phải đọc những cuốn sách này ngoại trừ những thứ đó người ta có
thể làm được và mong muốn cùng tôi tĩnh tâm một cách nghiêm túc (I would
not urge anyone to read this book except those
who are able and willing to meditate seriously along with me)” (trang
102, bài René Descartes Tôi tư duy do đó tôi hiện hữu)
Nhận xét: Người dịch không hiểu cách dùng từ “those” trong ngữ cảnh đi
với “who” có nghĩa “những ai”, “những người mà”, vì vậy thay vì dịch đơn
giản là “ngoại trừ những ai có thể và tự nguyện/sẵn lòng nghiêm túc suy
tư cùng với tôi”, lại đưa một mẩu ngủng ngẳng,
khó hiểu “ngoại trừ những thứ đó [sao không tự hỏi thứ đó là thứ nào]
người ta có thể làm được [không xác định rõ thứ đó là thứ gì thì biết
cái người ta làm được là cái gì] và mong muốn cùng tôi tĩnh tâm một cách
nghiêm túc”. Dịch vừa sai vừa lãng nhách!
Để hiểu ý bản dịch của Võ Công Liêm có khi mất thời gian hơn thời gian người đọc bỏ ra để học Anh văn và tự đọc bản gốc. Từ “tĩnh tâm” nghe kêu – chỉ không kêu bằng từ “thiền” (“meditate” kia mà) gần đây bị lạm dụng khá nhiều, nhất là trong giới có
chữ nghĩa – vừa không sát nghĩa vừa sai văn cảnh triết học, nhất là triết học phương Tây. Một
lỗi rất nhỏ, chỉ tương đương lỗ hổng cũng rất nhỏ nằm ngay dưới đáy
tàu, là bản tiếng Anh là “this book” nghĩa phải là “cuốn sách này”,
không thể dịch cẩu
thả là “những cuốn sách này” (tôi nhấn mạnh – NTV) được. Hơn nữa dịch giả biết mình đang nói về MỘT tác phẩm, MỘT cuốn sách của Descartes kia mà! Nhan đề cuốn sách mà ông dịch là Tĩnh lự khởi đầu triết học (Meditations on First Philosophy)
(tr. 101, bài René Descartes Tôi tư duy do đó tôi hiện hữu; tr. 103 thì lại dịch Tĩnh lự bước khởi đầu triết học) và nếu ai thắc mắc nhan đề lạ hoắc thì thử mail hỏi dịch giả lại.
– “Nietzsche thường nhấn mạnh: Hãy nâng cao giá trị để mọi thứ có giá
trị cho tới ngày nay (revaluation of all values hitherto)” (trang 123,
bài Hư vô qua tư duy triết học)
Nhận xét: Trước hết trong tiếng Anh, đấy là một cụm danh từ/danh ngữ
(noun phrase), chưa phải là một câu trọn vẹn, nên dịch thành hình thức
một câu, lại là một câu command, càng lệch và kỹ năng dịch căn bản như
thế chưa ổn. Thứ hai, dịch sai cả ý. Nghĩa của
cụm từ này là “sự đánh giá lại mọi giá trị xưa nay”.
Không ít người biết rõ dịch thuật không chỉ là chuyện từ và nghĩa, chỉ liên quan từ vựng và ngữ pháp. Những
lĩnh vực càng nhiêu khê càng cần thứ vốn gọi là kiến thức và văn hóa –
từ tổng quát tới chuyên ngành, từ phổ thông tới chuyên sâu. Tôi
chưa biết một môn nào phức tạp hơn hai môn Triết học phương Tây và Phật pháp. Để học được phần gọi là căn bản đã là một sự nghiệp. Nhưng không rõ vì sao số lượng người Việt – trước hết trong các giới tôi quen biết – rất tự tin với sở học gọi
là Triết và Phật học, có tỉ lệ rất cao. Có khi là một bằng chứng
về phẩm chất anh hùng trong thời bình của dân tộc ta chăng! Một ông bạn
lứa trước tôi dăm tuổi thường cao giọng giữa bàn rượu rằng “Bận kinh
doanh chứ trí tuệ cỡ tôi bỏ làm ăn ba năm thì
dứt khoát trở thành triết gia vĩ đại nhất thế giới!”. So với khẩu khí này thì xin lỗi Võ Công Liêm chỉ đáng xách dép, nhưng không thể nói Võ Công Liêm không có dòng máu hero này. Nghe nói lúc sinh tiền cụ Cao Xuân Hạo nhận xét một số tiến sĩ
của ta không chịu hỏi ai khi có vấn đề mình chưa rõ và rằng đối với quý tiến sĩ này thì “thà chết còn hơn hỏi”. Kinh
thật! Nhưng để các học sĩ làm việc với nhau, quay lại cảm hứng từ tập
triết luận đã có mùi “triết loạn” tôi đang “tản mạn”: Vì sao có
người lười cả việc dành mươi phút mở một trang từ điển, giở một cuốn
sách liên quan đề tài hay nhấc điện thoại hoặc mail một người anh em,
thưa với một chuyên gia, một bậc thầy để rõ một điểm mình chưa rõ? Chưa
nói có khi là một câu hỏi mà đứa cháu, thằng
em trong nhà có khi cũng có câu trả lời đúng. Cái ngã mạn mù
quáng – dám dạy môn võ mà trình độ bản thân chỉ vào hạng lơ mơ, xưng là
số một trong ngành mà thực tế mình chỉ đáng làm một chức gác cổng và thứ
logic vô minh vì tôi có học thứ này mà suy
ra thứ nào tôi cũng biết mà không cần học hỏi gì cả – của loài vạn vật
chi linh, tương truyền có mặt trong tam tài, đứng ngang được với Trời và
Đất, ở xứ ta khủng khiếp thực!
Một ví dụ là nhiều nhan đề sách triết học nổi tiếng được quý thầy Lê Tôn
Nghiêm, Trần Thái Đỉnh, Lê Thành Trị, Nguyễn Văn Trung … nhắc hàng chục
lần trước 1975 và sách giáo khoa triết học có đề cập, sau 1975 đến lượt
ông Bùi Văn Nam Sơn không những hâm nóng
không khí mà còn nâng hẳn trình độ nghiên cứu triết học phương Tây ở
Việt Nam lên một bậc. Thế mà nhà triết luận Võ Công Liêm lại nỡ
làm những người yêu mến Kant và Descartes mừng hụt bằng những tít sách
lạ hoắc – cứ tưởng di cảo mới phát hiện – nào
là “phê phán về lý do trong sáng” (tr. 59 ff., bài Kant – một lối phê bình triết học),
“phê phán về lý do thực tiễn” (tr. 60), rồi “phê phán về quyền lực xét
xử” (tr. 60) hay “phê phán về quyền lực phán xét” (tr. 71). Giá
như chịu đọc và theo
dõi, hoặc chỉ nhìn qua các bìa sách của loạt tác phẩm quan trọng của
Kant (và Hegel) ông Bùi Văn Nam Sơn cho in cách đây khá lâu hẳn Võ Công
Liêm đã thấy cách dịch “phê phán lý tính thuần túy”, “phê phán lý tính
thực hành” và “phê phán năng lực phán đoán”,
dù xem đó chỉ là gợi ý đi nữa thì đâu đến độ sản xuất những nhan đề tào
lao xịt bộp như rứa hỉ. Trong tiếng Anh, từ “reason” có nhiều
nghĩa, người dịch rõ ràng do không đọc cả một lời giới thiệu ngắn về tác
phẩm, giữa các nghĩa “lý do”, “lý tính”, “lý
trí” … bèn chọn nghĩa “lý do”, nên đẻ ra một loạt “lý do” kèm những lời
bình trời ơi đất hỡi là hệ quả tất yếu thôi. Và “pure reason”
(lý tính thuần túy) chợt hóa thành “lý do trong sáng” hay “lý do tinh
khiết” không có chi lạ vậy. Trong những lĩnh
vực mà chỉ một bước sẩy chân là “từ chết tới bị thương” như ngành Triết
học mà không trước hết – và còn dài dài – dựa vào đàn anh và các bậc
thầy mà lần bước, thiết tưởng không có chi mù lòa hơn. Nhân đây
xin làm cái việc khen phò mã tốt áo, tôi nhiều
lần nói với các bạn bên bàn cà phê rằng ông Bùi Văn Nam Sơn đáng gọi là
“tượng đài” không phải chỉ ở chỗ là người đầu tiên dịch trực tiếp các
công trình triết học kinh điển hàng đầu của các đại triết gia phương Tây
ra tiếng Việt (có lẽ một ngoại lệ là cuốn Hữu
thể và Thời gian (Sein und Zeit) của Heidegger do ông Trần Công
Tiến dịch và thầy Lê Tôn Nghiêm giới thiệu, NXB Quê hương, 1973), mà ông
còn có một công lao vô cùng ý nghĩa, tiếc là rất ít người nhận ra: bằng
những công trình dịch thuật thầm lặng mà tử
công phu, Bùi Văn Nam Sơn đã chứng minh một cách đầy cảm xúc và thuyết
phục rằng tiếng nói của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du và Nguyễn Bính đã đủ sức
chuyển tải ngay cả những siêu phẩm triết học cổ điển nặng ký (cả theo
nghĩa đen) và kì khu bậc nhất của văn minh
văn hóa nhân loại ra thứ tiếng từng được xem là nôm na, ngỡ chỉ hợp với
hò vè và chầu văn. Theo thiển ý chỉ có một bậc trí thức – chân
nhân làm được điều tương tự – trong một lĩnh vực gian nan không kém:
Phật pháp – đó là cố Hòa thượng Thích Minh Châu,
người đã một mình chuyển dịch thành công toàn bộ Kinh Nikaya (Kinh Bộ
hoặc Bộ Kinh) từ tiếng Pali sang Việt ngữ. Chúng ta thích theo
dõi và nức nở khen cuộc Tây Du tìm “Thánh Kinh” của ngài Đường Tam Tạng –
chủ yếu do ảnh hưởng của truyện và phim Tây
Du ký – quên rằng chúng ta có vinh hạnh đã và đang sống cùng thời với
hai ngài “Đường Tam Tạng” Việt Nam với hai cuộc hành trình đầy biểu
tượng, người đi Thiên Trúc, người qua Bá Linh, hai đại Quốc Độ Triết Học
của cõi Ta Bà này. Dĩ nhiên nếu dựng phim
cảnh hai cụ “Tây du” qua đường hàng không, túi xách lỉnh kỉnh lên máy
bay Air Vietnam e không hấp dẫn bằng hình ảnh sư Huyền Trang cưỡi ngựa,
có ba anh em Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giái và Sa Tăng chạy lấp xấp đàng
sau. Nhưng nhớ rằng công phu học tập
– và tu tập – của hai người đồng bào của chúng ta có kém chi, giá trị
các tác phẩm họ tiến hành dịch và dịch thành công chỉ có thể dùng một từ
mới lột tả được: VĨ ĐẠI! Đã hết đâu, phải nói và nói với chứng cớ, dữ
liệu có thể kiểm chứng được, rằng ngài Thích
Minh Châu đã in từng tập Nikaya một qua góp nhặt tiền ấn tống
của chư phật tử (bây giờ đọc danh sách đóng góp và lời cảm ơn cẩn trọng
của ngài in trong bản kinh cũ năm xửa năm xưa bỗng cay hai mắt – lời cảm
ơn lớn nhất phải dành cho người đã nguyện
dành đời mình mang Phật Khẩu trực tiếp tới với đồng bào mình!). Và ông Bùi Văn Nam Sơn mà tôi không chỉ gặp và nói chuyện một lần, có khi điều kiện thiệt thòi hơn nhiều. Dù
không tiện hỏi, tôi đoán dù ông có được sự giúp đỡ của thiện tri thức
tri âm, ví dụ chị Thái Kim Lan, và sự hỗ trợ quý báu của Quỹ Phan Châu
Trinh, chắc chắn ông đã hy sinh và chịu thiệt thòi không xiết kể trong
đời thường để những đồng bào hiếu tri, hiếu học của ông có cơ may chạm
tay vào những tập sách mang tên E. Kant
và F. Hegel và … Đúng là vị đại hòa thượng đời nhà Đường, người
được dân Trung Hoa xem như Bồ tát và triều đình cho xây chùa lớn, bảo
trợ việc in ấn … có phước lớn hơn đồng bào ta thiệt. Để những ai
ngỡ người viết so sánh khập khiễng, tô vẽ cho
phe nhà, thì xin đưa thêm một chi tiết nữa: với sự hỗ trợ của cả bậc
Thiên tử, dưới trướng của ngài Huyền Trang có đủ một hội chúng đồng phụ
vào việc dịch thuật, còn khâu cái ăn, cái mặc là chuyện vặt – lưu ý
những chuyện này đều được sử Tàu chép lại chi tiết. Chúng
ta kính cẩn và kính trọng Bồ tát Huyền Trang; mặt khác, khi biết cụ
Thích Minh Châu và ông Bùi Văn Nam Sơn tiến hành công việc dịch thuật
bao nhiêu năm tháng dài và rõ nhị vị đã tiến hành sự nghiệp để đời của
mình một thân một mình, hoàn toàn vô vị lợi làm
sao không kính phục, hâm mộ và tán thán!
Biết là đã lạc đề, nhưng người viết đoán chừng bạn đọc hiểu cảm hứng đột xuất của mình. Vả
lại, cũng thưa thiệt, lạc đề qua hai nhân vật văn hóa lớn, có công
trình tầm cỡ tưởng thú vị hơn nội dung chính của bài viết nhiều.
Quay trở lại với đề tài, chính do thiếu hụt vốn liếng tri thức ngay
trong vương quốc mà Võ Công Liêm ngỡ mình có thể múa gậy vườn hoang nên
mới gặp vấn đề với nhan đề The Birth of Tragedy của Nietzsche
(xin lưu ý người viết dùng lại nhan đề bằng tiếng
Anh mà dịch giả đã sử dụng, nhan đề tập sách của nhà triết học người
Đức tất nhiên bằng tiếng Đức – lần in đầu tiên vào năm 1872 có nhan đề Die Geburt der Tragödie aus dem Geiste der Musik). Võ Công Liêm dịch là Đẻ ra thảm cảnh (tr. 195, bài Siêu
hình giữa Heidegger và Nietzsche) mà về từ ngữ, “thảm cảnh” quả có trong từ điển. Khổ
một cái, đó là tác phẩm Nietzsche bàn về bi kịch Hy Lạp và từng được
nhắc nhiều lần, ví dụ trong trước tác của Phạm Công Thiện. Tập sách này
đã được Trần Xuân
Kiêm dịch với nhan đề Triết lý Hy Lạp thời bi kịch, NXB Tân An, 2/1975.
Tác giả tập tiểu luận Tư tưởng triết học vài lần nhắc tác phẩm Đường lối khôn ngoan (Way to Wisdom) của Jaspers không khỏi làm ta nhớ nhan đề có người dịch là “Con đường dẫn tới minh triết”. Jaspers nhiều lần nức nở khen khái niệm
“Dao” (Đạo) của phương Đông, nên ai đó dịch “Đạo Minh Triết” kể đã hiểu tác giả vậy. Đường lối khôn ngoan nghe âm hưởng Machiavel, Mao hay Steve Jobs.
Những hạt sạn như thông tin Nietzsche “cho xuất bản tập Thảm cảnh sinh tồn là tập truyện ngắn đầu tay và quan trọng nhất đời ông […]” (tr. 169, bài Triết học tâm lý hay triết lý nghệ thuật và văn hóa) không hiếm. Việc Nietzsche từng làm
thơ được ghi nhận. Tra cứu trong số từ điển có trong tay như từ điển triết học của các đại học Cambridge và Oxford, đặc biệt bộ đầy đặn hơn hẳn The Encyclopedia of Philosophy do Paul Edwards chủ biên, tôi không thấy thông tin nào về tập truyện
cả. Thảm cảnh sinh tồn, mà Võ Công Liêm gọi là tập truyện ngắn,
phải chăng là tên một công trình triết học nào khác của Nietzsche? –
trong bộ từ điển P. Edwards đứng tên chủ biên, tiểu mục về Nietzsche nhắc trên 20 tác phẩm của ông, không thấy
dòng nào về việc Nietzsche có sáng tác truyện ngắn. Vậy có cơ sở tin rằng Võ Công Liêm lại dịch nhầm chính tên sách The Birth of Tragedy vì hiểu sai thông tin.
Câu “I revolt, therefore we are” (tác giả dịch: “Tôi phản kháng, tất
chúng ta hiện hữu”) không phải của Descartes như tác giả tưởng (tr. 222,
bài Albert Camus tinh thần phản kháng) mà chính của Albert Camus (trong tác phẩm The Rebel: An Essay on Man
in Revolt) nhại câu của Descartes: “Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại” (Cogito ergo sum).
Cũng không rõ từ tư liệu nào, người dịch phong đại cho nhà văn Nga Turgeniev danh hiệu “nhà tư tưởng ngữ văn Nga” (tr. 122, bài Hư vô qua tư duy triết học).
Đối với các từ “Cartesian” (tr. 26, 137, 156), “Heideggerian” (tr. 143),
“Kierkeggardian” (tr. 101, 151) hay “Kantian” (tr. 58) … do không hiểu
đó là cách dùng ở dạng tính từ tên tuổi các bậc danh sĩ trong tiếng Anh
(tiếng Pháp cũng có dạng tương tự) – cách
dùng này trong tiếng Việt không có – nên Võ Công Liêm đã dùng không
đúng chỗ. Những cách dịch “hậu-Cartesian” thay vì dịch là
“sau/hậu Descartes”, “theo hướng Kantian” thay cho “theo hướng của
Kant”, hay “chủ thuyết của Kierkeggardian” trong khi phải
dịch là “chủ thuyết của Kierkeggard” … đầy trong sách.
Tất cả chứng tỏ sự chuẩn bị của người tình Võ Công Liêm trước khi ngỏ
lời cầu hôn với Nàng Triết Học thô thiển và bôi bác đến mức nào!
– Câu nói nổi tiếng và khá quen thuộc của Voltaire “Nếu không có Thượng
đế thì phải tạo ra Thượng đế” qua Võ Công Liêm thành “Nếu không có
Thượng đế thì Thượng đế cũng được chế ra” (tr. 239, bài Karl Jaspers – niềm tin và sự khai ngộ). Thực ra
dịch như vậy không quá xa ý tác giả. Có điều cần nhận xét rằng
có một thứ “luật” bất thành văn trong giới chữ nghĩa, khi một câu nói
hay một ý tưởng – thường của một danh nhân – đã được phổ biến thì chỉ
diễn dịch lại nếu cách dịch mới hay hơn, hoặc
ít ra là ngang giá trị với bản cũ. Nếu ai đó nhắc Đức Phật có
tuyên bố “Cuộc sống là một đại dương của khổ đau”, ta cảm giác ngờ ngờ
vì đã quen cách nói “Đời là bể khổ”. Thực tế nội dung không khác chi nhau. Đây chính là trường hợp cái
quen thuộc chi phối thị hiếu thẩm mỹ, không thể không cân nhắc. Ai chẳng rõ Voltaire viết bằng tiếng mẹ đẻ của ông, tiếng Pháp. Nguyên văn là “‘Si Dieu n’existait pas il faudrait l’inventer’. Mais toute la nature nous crie qu’il existe; qu’il
y a une intelligence suprême, un pouvoir immense, un ordre admirable, et tout nous instruit de notre dépendance”. Động từ “inventer” nghĩa quen thuộc là phát minh. Nói “phát minh ra Thượng đế” gần với nguyên bản, nhưng có khi chỏi tai nhiều người
chăng. “Chế”, “chế ra” không hẳn quá xa nghĩa “inventer”, nhưng “chế ra Thượng đế” thì không ổn rồi. Thượng
đế là duy nhất, không là duy nhất thì còn chi địa vị của Ngài, mà
“chế”, “chế tạo” nghe hơi hướm “made in” và “fabriquer” với số lượng
hàng loạt. Có người dịch “đẻ ra Thượng đế”, nghe bạo quá chăng –
quan hệ đẻ đái có vai vế trên dưới rành mạch (dù người dịch dùng theo
nghĩa bóng) – nhưng một lần nữa, cách dịch quá mạnh dạn này vẫn có nhiều
người chấp nhận chỉ vì … quen tai rồi! Vậy
tiêu chuẩn “đúng”, “hay” chưa đủ, có khi phải phổ biến, nghĩa là được
chấp nhận.
Các bạn cho phép cà kê thêm rằng câu nói đầy đủ của Voltaire thường bị
cắt xén, chỉ giữ nghĩa ông dùng cách điều kiện (conditionel) với “si”
gợi ý nghi ngờ xa gần tới sự hiện hữu của Thượng đế – ở thế kỷ 18 thế là
bạo quá rồi – và vế “phải tạo ra Thượng đế”
như một đề nghị có tính đạo đức hay thực dụng đơn thuần hơn là niềm tin
tôn giáo của nhà triết học. Thực ra, “Si Dieu n’existait pas il
faudrait l’inventer” là câu Voltaire tự trích dẫn mình trong thư gửi ông
hoàng nước Phổ Frederick William và ngay
sau đó, ông giải thích: “Mais toute la nature nous crie qu’il exist;
qu’il y a une intelligence suprême, un pouvoir immense, un ordre
admirable, et tout nous instruit de notre dépendance” (“Nhưng toàn bộ tự
nhiên/cuộc sống đều kêu to lên với chúng ta Ngài
đang hiện hữu; rằng có một trí tuệ tột đỉnh, một sức mạnh vô biên, một
trật tự đáng tôn phục, và mọi thứ đều dạy cho chúng ta rằng chúng ta tùy
thuộc vào đó” – lưu ý bạn nào cho từ “Ngài” không hợp thì cứ dịch là
“ông ta”, có khi lại hợp văn phong Voltaire
cũng nên). Trong khi đó các bậc trí thức ở Việt Nam gần như
không ai nhắc câu sau của Voltaire. Trích dẫn không đầy đủ dẫn tới việc
bản ý người nói ít nhiều bị xuyên tạc. Đó là một cách “làm ăn” chưa bị lưu ý đúng mực. Có
thể nói Voltaire
có một lập trường không dứt khoát về cái gọi là sự hiện hữu của Thượng
đế, cho dù ngược lại giới tăng lữ thường xuyên là đối tượng của những
công kích thẳng thắn và thường rất cay độc của ông. Đã có người
trong nước chịu khó lưu ý việc cắt ý “Cái đẹp
cứu rỗi thế giới” của Dostoievski và ý “Tôn giáo là thuốc phiện của
nhân dân” của Marx ra khỏi văn cảnh, nhưng đồng bào của họ có thèm lưu ý
cho đâu. Còn nguyên nhân vì sao có cách nói hàng hai của Voltaire hay đấy chỉ là một cách đề phòng, tự vệ vào
cái thời quan điểm tôn giáo phi chính thống có thể bị truy bức và rút phép thông công, thì phải nghiên cứu thêm.
Lỡ chạm vấn đề nên xin phép xa ý chính thêm một bước nữa – hy vọng không
phải là một ý kiến vô ích cho các dịch giả và các nhà chính luận khi
trích dịch và biện luận – ngay việc giải thích về quan điểm chính trị
của Voltaire ở xứ ta còn chỗ mơ hồ. Cùng
với Montesquieu và Rousseau, triết gia Voltaire được xem là người cha
tinh thần của Cách mạng 1789 gắn với vụ xử tử hoàng đế Louis 16, nhưng
thực tế tinh thần dân chủ của ông không hoàn toàn đúng với quan điểm dân
chủ hiện đại. Chính quyền lý tưởng
của Voltaire là một nhà nước có tôn trọng dân chủ, biết dựa vào ý dân,
nhưng bản ý của ông khá rõ: quốc gia nên được một vị quân vương có tài
đức – có hơi hướm Chuyển Luân Thánh Vương và Minh Quân Phương Đông – cai
trị. Một mô hình như thế thậm chí
không thể gọi bằng danh xưng dân chủ được. Điều này giải thích
vì sao Nữ hoàng Nga Catherine và Hoàng đế Phổ Frederick xem Voltaire là
khách quý và sẵn sàng welcome ông mỗi khi bị các hoàng đế Pháp truy bức. Và
cũng là nét dùng dằng, bất quyết
của cả nước Pháp, không chỉ một mình Voltaire, nếu chúng ta không quên
sự kiện người được đa số cử tri Pháp dồn phiếu cho chức vị tổng thống
của nền Đệ Nhất Cộng Hòa Pháp chính là vì hoàng đế của nền quân chủ vừa
cáo chung
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét