CÁCH BỐ TRÍ TƯỢNG THỜ
TRONG CHÙA MIỀN BẮC
*
(trích
từ VÀO CHÙA LỄ PHẬT NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT,
Đặng
Xuân Xuyến ; Văn Hóa Thông Tin ; 2006)
Các chùa
miền Bắc thường theo Thiền phái Bắc tông nên cách bài trí tượng Phật đơn giản
và khác với chùa miền Nam.
Một ngôi
chùa Phật giáo ở miền Bắc phổ biến có 4 khu vực: Chính điện, Tiền đường, Nhà
hành lang, Nhà tổ và nhà trai.
* CHÍNH
ĐIỆN:
1. Tượng
Tam Thế:
Là ba
pho tượng ngồi ngang nhau ở nơi cao nhất trên bàn thờ, đại diện cho chủ Phật
trong ba thời gian quá khứ, hiện tại thế, vị lai thế.
2. Tượng
A-di-đà Tam Tôn:
Tượng
còn được gọi là “Tây phương tam thánh” đặt ở hàng thứ hai từ trên xuống gồm:
Phật A-di-đà (ngồi giữa) Đại Thế Chí (bên trái) và Quan Thế Âm (bên phải) Đây
là 2 vị hộ pháp giúp việc cứu độ cho Phật A-di-đà.
Tượng
Phật A Di Đà thường có những nét đặc trưng: Dù ngồi hoặc đứng trên toà sen thì
đầu đều có các cụm tóc xoắn ốc, mắt nhìn xuống, miệng thoáng nụ cười cảm thông
cứu độ, mình mặc áo cà sa, ngực có chữ vạn ở khoảng trống của áo cà sa.
Phật A-di-đà
được tạc trong tư thế toạ thiền, ngồi xếp bằng, hai tay đặt giữa lòng đùi,
khuôn mặt đôn hậu, mắt nhìn xuống suy tư, miệng hơi mỉm cười.
Một số
nơi, tạc tượng A-di-đà ở tư thế đứng thuyết pháp trên toà sen.
3. Tượng
Thích Ca Mâu Ni:
Tượng
đặt ở hàng thứ ba, chính giữa. Tượng được tạc ở 4 tư thế thuộc 4 giai đoạn khác
nhau theo truyền thuyết về cuộc đời của Thích Ca Mâu Ni.
- Tượng
Cửu Long (Thích Ca sơ sinh): Tượng ở tư thế đã bước ra rồi đứng lại, một
tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất, có 9 con rồng uốn chầu xung quanh. Hai
bên tượng Cửu Long là hai tượng Đế Thích và Phạm Vương, chủ thể thế giới, nên
tạc theo kiểu nhà vua ngồi trên ngai.
Phật sử
nói rằng, khi Thích Ca giáng sinh có 9 con rồng phun nước để tắm cho Ngài. Tắm
xong Ngài tự đi 7 bước về phía trước, tay phải Ngài chỉ lên trời, tay trái Ngài
chỉ thẳng xuống đất mà nói ngay được rằng “Thiên thượng, Thiên hạ, duy ngã độc
tôn” (có nghĩa là trên trời, dưới đất, chỉ có “ta” là tôn quý).
- Tượng
Tuyết Sơn: Tượng diễn tả Thích Ca Mâu Ni trong thời kỳ tu khổ hạnh trên
núi Tuyết Sơn (núi rừng Ni Câu Luật) với thân hình gầy gò, chỉ có da bọc xương.
Dân gian quen gọi tượng Thích Ca Mâu Ni trong thời kỳ tu khổ hạnh là “Ông nhịn
ăn để mặc”.
- Tượng
Thích Ca thuyết pháp (còn gọi là Thích Ca giáo chủ): Tượng được tạc Thích
Ca Mâu Ni trong tư thế ngồi trên toà sen, mặc áo pháp, một vai để trần (tượng
tay cầm bông sen là tượng Thế Tôn niêm hoa…). Hai bên tượng Thích Ca thuyết
pháp có hai vị thị giả là Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát.
Có chùa
thay hai tượng này bằng hai tượng đệ tử A Nan Đà và Ca Diếp (thuộc bộ ba của
Phật giáo Tiểu thừa).
- Tượng
Niết Bàn: Trong đạo Phật nguyên thủy, Niết Bàn được xem là đoạn triệt luân
hồi và đi vào một thể tồn tại khác, không còn chịu sự tác động của nghiệp,
không còn chịu quy luật nhân duyên, vô vi, không còn sự sinh, thành, hoại,
diệt.. Đó là sự tận diệt gốc rễ của ba nghiệp bất thiện là tham, sân và si.
Tượng
diễn tả Thích Ca Mâu Ni đang nhập Niết bàn. Thông thường tượng Niết Bàn ở tư
thế nằm nghiêng sườn bên phải xuống thoải mái, tay phải co lại chống lên đầu,
mắt lim dim.
Tượng
Niết Bàn phổ biến ở các chùa thờ Phật theo Nam Tông, nhưng ít thấy ở các ngôi
chùa thờ Phật theo Bắc Tông.
4. Tượng
Phật Di Lặc:
Phật Di
Lặc được diễn tả bằng một pho tượng có dáng thư thái, thanh thản, hết ưu phiền
của bậc tu hành sắp đắc đạo thành Phật. Vì có thân hình đẫy đà, miệng cười lạc
quan, nên dân gian quen gọi là ông “Nhịn mặc để ăn”.
Thông
thường hai bên tượng Phật Di-Lặc là hai tượng Pháp hoa lâm Bồ tát và Đại diện
tướng Bồ tát, nên còn gọi là Di-Lặc Tam Tôn.
*. NHÀ
BÁI ĐƯỜNG:
Thông
thường nhà Bái Đường (còn gọi là Tiền Đường) được xây dựng trước cửa Chính
điện. Các tượng bày ở nhà Bái Đường gồm:
1. Tượng
Hộ pháp:
Hai bên
ở Bái đường đặt tượng hai vị Hộ pháp. Hai vị Hộ pháp là ý nghĩa khuyến Thiện và
trừng ác để hộ trì Phật pháp.
Tượng Hộ
pháp thường được tạc rất to, theo kiểu võ sĩ cổ, mình mặc áo giáp, đầu đội mũ,
một vị tay cầm viên ngọc, một vị tay cầm binh khí, trong tư thế đứng hoặc ngồi
trên lưng một con sân (một loại giống sư tử).
2.
Tượng Thần Thổ Địa - Thánh Tăng:
Thường
thì các chùa miền Bắc thờ Đức Ông (còn gọi là Đức Chúa) một bên, và Đức Thánh
Hiền (còn gọi là Thánh Tăng) một bên.
Nhưng
cũng có ít chùa thờ một bên là Thần Thổ Địa, một bên là Thánh Tăng. Đặc biệt, ở
chùa giữa (Tây Phương) lại thờ cả Thần Thổ Địa và Đức Ông (một trẻ râu
ngắn, một già râu dài) ở gian Tiền Đường.
Tượng
râu dài là Long Thần, hay Già Lam Chân Tể, có thể hiểu là người coi sóc chùa.
Tượng râu ngắn có thể hiểu là Thổ địa, người canh giữ Đất.
*. NHÀ
HÀNH LANG:
Tượng
bày ở nhà hành lang là 18 vị La Hán được tạc kích thước bằng người bình thường
với các tư thế khác nhau: Vị ngồi trên tảng đá, vị ngồi trên gốc cây, vị ngồi
lưng ngựa, vị ngồi lưng tê giác… vẻ mặt suy nghĩ trầm mặc.
Phật
giáo Tiểu thừa cho rằng La Hán là vị quả thánh cao nhất nhưng còn phiền não
luân hồi sinh tử, vâng lệnh của Phật ở mãi trên thế gian để cứu độ chúng sinh,
không nhập diệt.
*. NHÀ
TĂNG:
Nếu thờ
Tổ gọi là Nhà Tổ, dùng trai tăng gọi là Nhà Trai.
Nhà Tăng
thường được xây dựng sau chính điện nên còn gọi là hậu đường. Trên cao của gian
giữa thờ hai tượng Thánh tăng là A Nan Đà (Phật giáo Đại thừa thì thờ Văn Thù
Bồ Tát) và Sư Tổ Bồ Đề Đạt Ma (là tổ sư truyền đạo thiền sang Trung Hoa và các
nước Đông Nam Á).
Dưới là
các vị sư tổ đã tu tại chùa. Các vị sư tổ có thể tạc tượng hoặc không tạc
tượng. Có chùa xây dựng một điện riêng để thờ các vị thần thánh này. Ngoài ra,
ở nhà tăng trong một số chùa còn thờ tượng Quan Âm Tổng Tử, Quan Âm toạ sơn….
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét