Thứ Hai, 5 tháng 5, 2025

NGUYỄN ĐÌNH NHỮ dịch

 

NGUYỄN ĐÌNH NHỮ dịch 


hoa_sung_1

  

LÊ THÁI TỔ

(1381 - 1433)

Lê Thái Tổ (chữ Hán:    10 tháng 9 năm 1381 - 5 tháng 10 năm 1433), tên thật là Lê Lợi (黎利 ) là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo quân sự, người đã thành lập một đội quân người Việt và lãnh đạo đội

quân này chiến đấu chống lại sự chiếm đóng của quân đội nhà Minh từ năm 1418 đến lúc đánh đuổi

hoàn toàn quân Minh ra khỏi đất nước Việt Nam. Ông là bậc anh hùng tài lược cái thề. Sau khi đánh

thắng quân Minh, ông lên ngôi vua, tại vị 6 năm, thọ 51 tuổi, khi mất được tán tại Hữu Lăng ở Lam Sơn.

 

    完,過   

  

      

      

      

      

      

      

      

      

 

CHINH ĐIÊU CÁT HÃN HOÀN, QUÁ LONG THỦY ĐÊ

Khi khu hiểm lộ bất từ nan,

Lão ngã do tồn thiết thạch can.

Nghĩa khí tảo không thiên chướng vụ,

Tráng tâm di tận vạn trùng san.

Biên phòng vị hảo trù phương lược,

Xã tắc ưng tu kế cửu an.

Hư đạo nguy than tam bách khúc,

Như kim chỉ tác thuận lưu khan.

Lê Thái Tổ

 

Dịch nghĩa 

ĐI ĐÁNH ĐÈO CÁT HÃN TRỞ VỀ

QUA ĐƯỜNG ĐÊ LONG THỦY

Đường gồ ghề hiểm trở, chẳng ngại khó khăn

Ta tuy già mà gan còn vững như sắt đá

Nghĩa khí quét sạch nghìn lớp mây mù

Tráng tâm san phẳng muôn trùng núi non

Lo việc biên phòng cần có phương lược sẵn sàng

Giữ nền xã tắc nên tính kế dài lâu

Lời truyền ba trăm ngọn thác quanh co rất nguy hiểm đã thành lời hư không

Ngày nay chỉ coi như nước thuận dòng chảy xuôi.

 

Dịch thơ:

ĐI ĐÁNH ĐÈO CÁT HÃN TRỞ VỀ,

QUA ĐƯỜNG ĐÊ LONG THỦY

Đường hiểm không hề ngại khó khăn

Ta già dạ sắt vẫn bền gan

Khí thiêng quét sạch ngàn lam chướng

Chí lớn san bằng vạn núi ngăn

Phòng giữ biên cương mưu sách lược

Giữ nền xã tắc tính ngàn năm

Ai rằng thác réo ba ngàn khúc

Thuyền thuận xuôi dòng hết hiểm gian.

  1. Đ. N.

 

 

THÁI THUẬN

(1441 - ?)

Thái Thuận ( , 1441 -?), tự: Nghĩa Hòa, hiệu: Lục Khê, biệt hiệu: Lã Đường; là nhà thơ, quan

lại Việt Nam thời Lê sơ. Thái Thuận sinh ra trong một gia đình bình dân ở thôn Đoài, tổng Liễu Lâm, phủ Siêu Loại, thừa tuyên Kinh Bắc (nay thuộc xã Song Liễu, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Thuở trai trẻ, có thời ông làm lính dạy voi , về sau mới đi học. Năm Ất Mùi (1475), đời Lê Thánh Tông, ông thi đỗ Tiến sĩ. Ban đầu, ông làm quan ở Viện Hàn lâm 20 năm; sau giữ chức Tham chính sứ Hải Dương , và được cử đi công cán qua các vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, Thuận Hóa... Ông là người có đạo đức, lại có tài văn chương, được người đương thời rất kính trọng. Vì vậy, ông được vua Lê Thánh Tông cho dự chức Tao đàn Sái phu (sau thăng Tao đàn Phó nguyên súy) trong Hội Tao đàn do chính nhà vua thành lập năm 1495. Nhà thơ Thái Thuận mất năm nào không rõ.

 

 

    

    

    

    

    

    

    

    

 

 

TÂN LANG

Lý lạc nhân gia ngoại

Đình đình xuất phượng sao

Căn nhân bàn địa cố

Đỉnh vị đới thiên cao

Thanh thực nghi thời dụng

Chu thần bất nhật phao

Tân lang chân khả tiếu

Không tự biên lâm cao.

Thái Thuận

 

Dịch nghĩa:

CÂY CAU

Ở bên phên giậu ngoài nhà dân

Cao sừng sững trổ ra đuôi phượng hoàng

Gốc rễ bám sâu xuống đất vững chắc

Đỉnh đầu đội vòm trời cao vút

Quả xanh thích hợp với việc sử dụng của người đời

Trang điểm cho cặp môi son thì chẳng có ngày nào vứt bỏ

Thật đáng nực cười cho cây cau

Cứ việc mọc khắp ở mé bờ bên rừng.

 

Dịch thơ:

CÂY CAU

1.

Đứng bên hàng giậu chắn

Sừng sững phượng xòe đuôi

Chùm rễ sâu ôm đất

Đỉnh đầu cao đội trời

Quả xanh đời tiện dụng

Môi đỏ người thêm tươi

Thật nực cười cau thẳng

Mọc lên khắp núi đồi.

N.Đ.N.

2.

Đứng bên hàng giậu nhà người

Vươn cao sừng sững xòe đuôi phượng hoàng

Đất sâu rễ bám vững vàng

Đỉnh đầu chót vót hiên ngang đội trời

Quả xanh tiện dụng cho đời

Quanh năm trang điểm môi người tươi son

Nực cười cau dáng thân thon

Mọc lên khắp chốn sườn non, thành rừng.

N.Đ.N.

 nui_xanh


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét