NGUYỄN ĐÌNH NHỮ dịch
黎 太 祖
LÊ THÁI TỔ
(1381 - 1433)
Lê Thái Tổ (chữ Hán: 黎 太 祖 10 tháng 9 năm 1381 - 5 tháng 10 năm 1433), tên thật là Lê Lợi (黎利 ) là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo quân sự, người đã thành lập một đội quân người Việt và lãnh đạo đội
quân này chiến đấu chống lại sự chiếm đóng của quân đội nhà Minh từ năm 1418 đến lúc đánh đuổi
hoàn toàn quân Minh ra khỏi đất nước Việt Nam. Ông là bậc anh hùng tài lược cái thề. Sau khi đánh
thắng quân Minh, ông lên ngôi vua, tại vị 6 năm, thọ 51 tuổi, khi mất được tán tại Hữu Lăng ở Lam Sơn.
徵 琱 佶 扞 完,過 龍 水 堤
黎 太 祖
崎 嶇 嶮 路 不 辭 難
老 我 猶 存 鉄 石 肝
義 氣 埽 空 千 霧 嶂
壯 心 移 盡 萬 重 山
邊 防 為 好 籌 方 略
社 則 應 修 計 久 安
虛 道 危 灘 三 百 曲
如 今 只 作 順 流 著
CHINH ĐIÊU CÁT HÃN HOÀN, QUÁ LONG THỦY ĐÊ
Khi khu hiểm lộ bất từ nan,
Lão ngã do tồn thiết thạch can.
Nghĩa khí tảo không thiên chướng vụ,
Tráng tâm di tận vạn trùng san.
Biên phòng vị hảo trù phương lược,
Xã tắc ưng tu kế cửu an.
Hư đạo nguy than tam bách khúc,
Như kim chỉ tác thuận lưu khan.
Lê Thái Tổ
Dịch nghĩa
ĐI ĐÁNH ĐÈO CÁT HÃN TRỞ VỀ
QUA ĐƯỜNG ĐÊ LONG THỦY
Đường gồ ghề hiểm trở, chẳng ngại khó khăn
Ta tuy già mà gan còn vững như sắt đá
Nghĩa khí quét sạch nghìn lớp mây mù
Tráng tâm san phẳng muôn trùng núi non
Lo việc biên phòng cần có phương lược sẵn sàng
Giữ nền xã tắc nên tính kế dài lâu
Lời truyền ba trăm ngọn thác quanh co rất nguy hiểm đã thành lời hư không
Ngày nay chỉ coi như nước thuận dòng chảy xuôi.
Dịch thơ:
ĐI ĐÁNH ĐÈO CÁT HÃN TRỞ VỀ,
QUA ĐƯỜNG ĐÊ LONG THỦY
Đường hiểm không hề ngại khó khăn
Ta già dạ sắt vẫn bền gan
Khí thiêng quét sạch ngàn lam chướng
Chí lớn san bằng vạn núi ngăn
Phòng giữ biên cương mưu sách lược
Giữ nền xã tắc tính ngàn năm
Ai rằng thác réo ba ngàn khúc
Thuyền thuận xuôi dòng hết hiểm gian.
- Đ. N.
槟 榔
THÁI THUẬN
(1441 - ?)
Thái Thuận (蔡 順, 1441 -?), tự: Nghĩa Hòa, hiệu: Lục Khê, biệt hiệu: Lã Đường; là nhà thơ, quan
lại Việt Nam thời Lê sơ. Thái Thuận sinh ra trong một gia đình bình dân ở thôn Đoài, tổng Liễu Lâm, phủ Siêu Loại, thừa tuyên Kinh Bắc (nay thuộc xã Song Liễu, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Thuở trai trẻ, có thời ông làm lính dạy voi , về sau mới đi học. Năm Ất Mùi (1475), đời Lê Thánh Tông, ông thi đỗ Tiến sĩ. Ban đầu, ông làm quan ở Viện Hàn lâm 20 năm; sau giữ chức Tham chính sứ Hải Dương , và được cử đi công cán qua các vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, Thuận Hóa... Ông là người có đạo đức, lại có tài văn chương, được người đương thời rất kính trọng. Vì vậy, ông được vua Lê Thánh Tông cho dự chức Tao đàn Sái phu (sau thăng Tao đàn Phó nguyên súy) trong Hội Tao đàn do chính nhà vua thành lập năm 1495. Nhà thơ Thái Thuận mất năm nào không rõ.
槟 榔
篱 落 人 家 外
亭 亭 出 鳳 梢
根 纫 盤 地 固
顶 为 戴 天 高
青 植 宜 时 用
朱 唇 不 日 抛
槟 榔 真 可 笑
空 自 遍 林 皋
蔡 顺
TÂN LANG
Lý lạc nhân gia ngoại
Đình đình xuất phượng sao
Căn nhân bàn địa cố
Đỉnh vị đới thiên cao
Thanh thực nghi thời dụng
Chu thần bất nhật phao
Tân lang chân khả tiếu
Không tự biên lâm cao.
Thái Thuận
Dịch nghĩa:
CÂY CAU
Ở bên phên giậu ngoài nhà dân
Cao sừng sững trổ ra đuôi phượng hoàng
Gốc rễ bám sâu xuống đất vững chắc
Đỉnh đầu đội vòm trời cao vút
Quả xanh thích hợp với việc sử dụng của người đời
Trang điểm cho cặp môi son thì chẳng có ngày nào vứt bỏ
Thật đáng nực cười cho cây cau
Cứ việc mọc khắp ở mé bờ bên rừng.
Dịch thơ:
CÂY CAU
1.
Đứng bên hàng giậu chắn
Sừng sững phượng xòe đuôi
Chùm rễ sâu ôm đất
Đỉnh đầu cao đội trời
Quả xanh đời tiện dụng
Môi đỏ người thêm tươi
Thật nực cười cau thẳng
Mọc lên khắp núi đồi.
N.Đ.N.
2.
Đứng bên hàng giậu nhà người
Vươn cao sừng sững xòe đuôi phượng hoàng
Đất sâu rễ bám vững vàng
Đỉnh đầu chót vót hiên ngang đội trời
Quả xanh tiện dụng cho đời
Quanh năm trang điểm môi người tươi son
Nực cười cau dáng thân thon
Mọc lên khắp chốn sườn non, thành rừng.
N.Đ.N.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét