Thứ Năm, 22 tháng 5, 2025

TRONG MÀU "MEN LỬA"

 TRONG MÀU “MEN LỬA”

(Đọc tập “Thơ chọn lọc: Men lửa”anh_anh_phong

của nhà thơ Trần Thị Nương, Nxb Văn học, 2022)

LÊ ANH PHONG

 

Trên tay tôi là tập “Thơ chọn lọc” 338 bài của nhà giáo, nhà thơ, nhà báo Trần Thị Nương. Cái tên đã gọi đúng thần thái, thần thức của thi tập: “Men lửa”. Đó là tập thơ của niềm giao cảm, của tình yêu và khát vọng, của sự trăn trở trước con người, trước cuộc đời.

          Lửa hiện lên trên tên gọi của nhiều bài thơ: Lửa reo, Lửa hồng, Lửa nồng, Lời của lửa, Cháy lặng im, Vẫn cháy… Dường như, nguồn năng lượng ấy chị dồn hết cho thi ca. “Men lửa” cũng là điệu tâm hồn thơ Trần Thị Nương. Thơ đến với chị từ những điều thiêng liêng cao cả: Tình cảm gia đình, tình yêu thiên nhiên đôi lứa, tình yêu quê hương đất nước… Nhưng nhiều khi thơ đến từ những điều giản dị, từ những con người của đời thường: Ngày nằm viện, người thợ may, nghe người bạn thơ hát… Cuộc sống với muôn vàn gương mặt đều có thể tràn vào trang viết. Chữ nghĩa bắt đầu từ gia đình, từ câu hỏi rưng rưng trước cỏ xanh của tấm lòng hiếu nghĩa: “Đâu rồi bóng mẹ? Cỏ non ơi!”. Chữ nghĩa bắt đầu từ tình thương của mẹ: “Chút gừng cay đẩy lùi cơn cảm lạnh/ Tay mẹ gầy xoa ấm mấy trăm năm”. Thật cảm động và ấm lòng, tôi như được gặp lại mẹ mình trong hình ảnh thơ ấy. Riêng và chung, người mẹ của nhà thơ nhưng cũng là người mẹ của năm tháng không quên. Tình thương ấy vẫn đang sưởi ấm những ngày đông buốt giá.

          Thơ Trần Thị Nương là khúc ca về vẻ đẹp của ký ức của quê hương, vẻ đẹp của thiên nhiên, con người trong cuộc sống đa dạng: “Cái thời trang vở trắng phau/ Mắt đen lay láy nhìn nhau ngỡ ngàng”, “Quê tôi những đêm trăng vàng/ Điếu cày ngồi nghe cổ tích/ Chuyện buồn vui nghìn năm trước/ Điếu phả khói trắng lặng im”, “Xoải chân kéo/ Hoàng hôn ngún lửa/ Làng chài xanh/ Nô nức vụ cá về/ Mỗi người lính/ Mỗi pháo đài giữ biển/ Mỗi người dân/ Sừng sững cột đá thề”.

        Có thể nói, tình yêu cùng với niềm khát khao giao cảm là một trong những nguồn mạch chính tạo nên thơ Trần Thị Nương. Đắm đuối với thi ca, thành thật với chính mình, con đường thơ của chị là hành trình của: “Tìm mật trong cây/ Tìm vàng trong lửa”, “Ta thèm khát người đàn ông đích thực/…Chỉ cần trái tim đập thật/ Những lời mộc mạc, người ơi!”. Đó là khát vọng sống, khát vọng yêu, tìm “người đàn ông đích thực” của đời mình, tìm người đồng cảm tri âm trong cuộc sống, trong văn chương: “Lặn lội suốt trời Nam bể Bắc/ Sống tìm người đồng cảm- thế thôi”. Trước đổi thay, trước chộn rộn vẫn là những vần thơ của niềm tin, của thủy chung trong lẽ sống: “Đá có bạc thành vôi kệ đá/ Sông đổi dòng, tách nhánh kệ sông/ Biển dội dã thủy triều kệ biển/ Yêu nhau cất sóng ở trong lòng”. Ở đó luôn dào dạt “Dòng sông dồn nuôi biển cả”, sóng “Dội nỗi niềm khôn nguôi”. Ở đó nồng nàn và mê đắm, “gặp nhau là cháy”, yêu hết lòng và thành thực, cho nên “Có phải/ Anh là sự thật/ Để em gạch đi/ Mọi giả dối trên đời?”, để “Đãi ngày nuôi những yêu tin/ Cho mình được sống chính mình trong nhau”. Khao khát sống, nhưng: “Biển đục bất ngờ/… Thôi đành bỏ biển chiều nay”, “Chỉ còn cách bay lên để sống/ Trong quãng ngày chật hẹp trần gian”. Có thể nói, thơ Trần Thị Nương là tiếng nói nồng cháy, đầy tự tin, mang bản sắc “âm hưởng nữ quyền”. Nhưng, đó còn là nỗi niềm thế sự, là suy tư về con người và những ngày ta đang sống.

          Trong “Men lửa”, ngôn ngữ thơ Trần Thị Nương xa lạ với điệu đà làm dáng. Thời gian trong thơ chị là thời gian của nồng nàn hối hả “Đồng hành” trên trang viết: “Chúng mình cùng đi nhé/ Chuông đã thỉnh trong chiều/ Bên bùn… sen vẫn nở/ Quỹ ngày còn bao nhiêu?”. Trân quý từng phút giây cuộc đời, nhưng đó phải là thời gian của hoa nở. Người thơ rất sợ “Sự thờ ơ đục ruỗng thời gian”. Còn đây là thời gian, không gian của hiện sinh. Trong mơ hồ sương khói, trong phấp phỏng lo âu, một thoáng hoài nghi trên đường xa đứng lại: “Đắm chiều lửa ngút trong sương/ Lại hun hút một chặng đường hư vô/ Chợt không chợt có sững sờ/ Mong manh vẫn khắc khoải chờ ngàn năm”. Nhưng, với khí chất “Men lửa”, nhà thơ vẫn hướng về phía trước, vì ở đó có: Biển gọi, Bến đợi, Vẫn chờ, Sóng khát… (Tên các bài thơ): “Biển gọi ai hay ai gọi biển/ Đến bây giờ sóng vẫn dội trong thơ”, “Khao khát nhận trăm nghìn ngọn thác/ Lọc riêng mình vị mặn biển xanh”, “Đời làm giọt nước trong veo/ Còn hơn là cả ao bèo lầm mưa”, “Biển không bao giờ lẻ/ Khi chúng mình trong nhau”. Đó còn là thời gian của nghiệm sinh để hiện lên phẩm giá, để “lành sẹo vết đau”…

          Bên cạnh đó, vẻ đẹp của thi ca đã giúp nhà thơ chống lại những phôi pha, chống lại sự cằn cỗi nguội lạnh của tâm hồn, san lấp những khoảng cách trong “Tiếng gọi”: “Tiếng trầm tiếng ấm gọi tôi/ Nửa xanh về trước. Nửa ngời về sau”. Ngược lại, thiên tính nữ mang đến cho thơ Trần Thị Nương vẻ đẹp vừa thực tế vừa lãng mạn mà hồn hậu: “Mẹ đã cho con người đàn ông đích thực/ Con được làm Người vừa đi bộ, vừa bay…”. Hạnh phúc cũng thật mong manh, nhưng vẫn trở về sau giông bão. Đây là khoảnh khắc của “Hạnh phúc” giữa mùa người được nhà thơ nâng niu trong hương sắc xuân sang: “Hạnh phúc đến sau quá nhiều bước ngoặt/ Bao cơn giông chẳng át nổi mùa vàng/ Cả rừng đào chưa làm nên cái Tết/ Chỉ em về mới thực xuân sang”. Ngay cả trong “Chia đôi”, trong nghịch cảnh đầy nước mắt, trái tim và con mắt thi nhân vẫn nhận ra một vẻ đẹp khác, vẻ đẹp từ nỗi buồn, từ sự tương phản, câu thơ mang đến nhiều nghĩ ngợi và tự vấn: “Hai người chẳng còn thương nhau nữa/ Chỉ con quýt vàng đi lại cả hai nơi”. Phải chăng, than hồng luôn được ấp iu an trú trong chiều sâu của nội cảm hồn hậu bao dung, sưởi ấm những ngày lạnh lẽo cô đơn. Khi đã sống hết mình với thơ, với tình yêu, với cuộc đời… , khi đã bước sang tuổi “xưa nay hiếm”, bằng sự an nhiên tự tại, nhà thơ bình thản đón mùa của giá lạnh với “ngó sen hồng vẫn đợi ngày nở hương bên hồ cũ… Thanh thoát, diệu kỳ giữa cung bậc mùa đông”. Đi qua bao buồn vui, người thơ như bước vào khoảng lặng của ái ngữ tâm cảm, ở đó có những “hạt tâm tri” đang nở, ở đó ánh lên vẻ đẹp của con người, vẻ đẹp của văn hiến, lịch sử trong “Hồn phố”: “Bồi hồi dạo giữa giấc mơ/ Kiếm thần vung loáng nước bờ thời gian/ Hút vào dòng chảy lo toan/ Nụ cười vẫn ngọc. Phố Tràng vẫn Thi/ Thẳm sâu Văn Miếu nói gì/ Nghìn sau ngoảnh lại nhiều khi ngỡ ngàng”. Đó là những cặp 6/8 hay nhất trong lục bát của chị. Tinh tế, đằm thắm và chiêm nghiệm. Vẻ đẹp ấy đã mang đến sự hài hòa và chiều sâu cho chân dung thơ Trần Thị Nương.

          Vừa là nhà báo vừa là nhà thơ, phẩm chất công dân hiện rõ trong thơ chị. Thế sự với những vùng sáng tối của con người, xã hội và đất nước luôn được nhà thơ quan tâm trong thao thức: Biển Đông và bờ cõi giang sơn, những nguy cơ băng hoại về văn hóa, lối sống, những vấn nạn nhức nhối… Đây là câu thơ đầy ám ảnh trước những đứa trẻ tội nghiệp do hậu quả chất độc da cam “Sau chiến tranh”: “Đứa vẹo vọ không ra hình quỷ/ Đứa nghiến răng ken két muốn làm người”. Trong phong nhiêu chộn rộn “Người tìm nhau qua vực thẳm”. Và ở đó âm vang câu thơ trăn trở: “Sợ chùa tượng gỗ ngồi chơi/ Có nghe sóng xé biển trời bão giông”.

          Có thể nói, trong bức tranh thơ Trần Thị Nương, “Dây bầu và bức tường mảnh chai” là điểm nhấn. Bài thơ trở thành một minh chứng sinh động về sự giao thoa giữa truyền thống và hiện đại trong biểu đạt, trong điểm nhìn. Giàu suy tưởng, một biểu tượng về sức sống và khát vọng, về bản lĩnh và thao thức vượt thoát, bài thơ được Tạp chí Văn nghệ Quân đội tuyển chọn là một trong những tác phẩm hay sau 1975. Tư tưởng ấy hiện lên từ sự tương phản, từ “bức tường mảnh chai”, hình ảnh rất quen thuộc trong đời sống Việt. Nhà thơ viết cho cuộc đời và phải chăng thấp thoáng có mình trong đó.

          Xin được dẫn chứng trọn vẹn bài thơ mà tôi yêu thích: “Trên bức tường mảnh chai/ dây bầu xanh thanh thản/ Mảnh vỡ sinh ra từ vỏ nào rỗng tuếch/ dây bầu sinh ra từ Đất Mẹ xửa xưa/ Mảnh chai tua tủa- dây lan óng mềm/ mảnh chai nhọn hoắt- hoa cười hồn nhiên/ Đom đóm bay qua bức tường mảnh chai/ gặp dây bầu bật lên thành đốm lửa/ Đàn chim bay qua bức tường mảnh chai/ gặp dây bầu hát lên thành cung bậc/ Mặt trời đi qua bức tường mảnh chai/ trổ những nụ trắng ngần/ hóa thành dây ánh sáng/ Trên bức tường/ mảnh chai cứa vào không gian/ dây bầu/ ung dung/ trĩu quả”

Sáng tạo là hành trình không có điểm dừng, bài thơ hay luôn ở phía trước. Cởi mở và nồng nhiệt, nhưng nhà thơ “Nhiều khi tránh đám đông/ Ta lặng lẽ bên trời/ Với hư không nỗi niềm thăm thẳm/ Với cõi người đằng đẵng mùa mong”. “Tôi và chúng ta”, ý thức ấy cần lắm cho thơ. Không còn là đồng ca, thơ hôm nay dành cho đơn ca. Hiện thực trong thơ chị rất rộng. Có thể nói, nhà thơ Trần Thị Nương đã định hình được căn tính của mình trong thơ, chữ nghĩa gắn liền với buồn vui của con người, trăn trở và thao thức, khát vọng sống mạnh mẽ của một người thơ đa cảm và luôn hướng về ánh sáng. Đó là phẩm chất thơ của một người viết luôn “sống chật với mình”. “Men lửa” trở thành một trong những địa chỉ của thơ, của niềm khát khao giao cảm, ngôn ngữ của “Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt”… Người thơ ấy, có lúc “Thảnh thơi tôi thắp ngọn đèn trong thơ”, có lúc lại bùng lên kiêu hãnh như muốn “Bay về phía mặt trời”.

          Bước vào đời là một nhà giáo, phải chăng cái gốc ấy đã góp phần giữ vững Cây Thơ Trần Thị Nương trong gió bão. Hoa trái đã nên mùa bên “Giếng khát”.

          Và ở phía Vườn Tâm ấy, tôi vẫn thấy ánh đèn “Men lửa” thắp trong thơ.

                                                                 

               Tháng 3/ 2022

 

 

 anh_cua_trung_nguyen_11


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét