Chủ Nhật, 28 tháng 9, 2025

TIỂU LUẬN của TRẦN ĐĂNG KHOA

 

TIỂU LUẬN của TRẦN ĐĂNG KHOA 

exenhin

trn_ng_khoa_1

ĐỌC THƠ DỊCH CỦA THÁI XUÂN NGUYÊN NGHĨ VỀ DỊCH THƠ VÀ NHÀ THƠ X. EXENHIN
TRẦN ĐĂNG KHOA
Quý vị và các bạn đang có trên tay tập NHỮNG CƠN BÃO TUYẾT, do nhà thơ, dịch giả Thái Xuân Nguyên tuyển chọn 100 bài thơ tiêu biểu của Xergay Exenhin, nhân kỷ niệm 100 năm ngày mất của ông (27-12-1925/27-12-2025 ). Đối với người Việt ta, có lẽ ai yêu văn chương cũng biết Xéc gây Exênhin, nhà thơ thiên tài Nga. Những năm gần đây, giới phê bình nghiên cứu và đông đảo bạn đọc Nga đều đặt ông bên cạnh các thiên tài lỗi lạc của mình: A. Puskin, L.Tonxtoi, A. Tsêkhop, F. Dostoepxki, N. Gôgol, và nhiều tên tuổi lớn của nền văn học Nga, Xô Viết. Đề tài chính trong các sáng tác xuất sắc của X. Exenhin hầu hết chỉ là những việc, những chuyện rất vặt vãnh ở nơi ông sinh sống – làng Konstantinovo, tỉnh Riazan - như: Con bò. Con chó. Con sói. Con cáo, Cây bạch dương. Cơn bão tuyết. Cánh đồng đã gặt. Dọc con đường mòn quanh làng. Ngày thu sau mưa. Tuyết đầu mùa..., rồi những người nông dân bình dị, quen thuộc. “Tôi là nhà thơ cuối cùng của làng quê”. Xéc gây Exenhin đã từng nói vậy. Và quả đúng như thế. Sau Xéc gây, từ thời của ông cho đến tận bây giờ, ở nước Nga, hầu như không còn thi sĩ nào viết hay về làng quê nữa. Và nói như nhà văn M. Gorki, Xéc gây Exênhin là một đấng kỳ diệu mà văn hóa Nga, thiên nhiên Nga đã tạo ra để cất lên nỗi buồn Nga, những nỗi niềm của làng quê Nga và đồng ruộng nước Nga vàng….
Một trăm bài thơ dịch chọn lọc của Thái Xuân Nguyên trong tập sách này cũng đã cho ta một cái nhìn bước đầu về công việc dịch thuật, về cuộc đời và sự nghiệp của X. Exenhin, một nhà thơ quen thuộc mà chúng ta vô cùng yêu mến. Từ muôn đời nay, ai cũng biết dịch thuật là một việc rất khó. Dịch thơ lại càng khó hơn. Bởi thế các cụ xưa bảo: Dịch là diệt. Vì nhiều bài thơ dịch, so với nguyên bản, chúng chẳng liên quan gì đến nhau, cũng không họ hàng với nhau, thậm chí chúng còn là kẻ thù không đội trời chung của nhau. Nhà thơ thiên tài Chế Lan Viên cũng từng cay đắng ta thán: Nghe nói có nhà thơ nổi tiếng/ Bỏ mấy trăm ngàn ra mua/ Đọc chẳng hiểu gì hết/ Mới hay mình bị lừa/ Bị lừa bởi thằng dịch chết dịch/Đã dốt còn dịch bừa/ Tiền nó bỏ vô túi/ Còn thơ trả cho nhà thơ/ Chúng ta chết bởi những thằng trung gian ấy/ Không trung mà lại gian/ Bao nhiêu thiên tài rơi vào tay chúng/ Chẳng có ma nào còn! …
Đấy là những bản dịch tồi của những dịch giả tồi. Còn đối với những dịch giả xuất sắc, thì bản dịch so với nguyên bản, chúng lại tôn nhau lên, trang điểm cho nhau, như hai tấm gương soi vào nhau và cả hai cùng sáng lấp lánh.
Trong truyền thống dịch thuật của ông cha, chúng ta có rất nhiều kiệt tác như thế. Đó là những bản dịch trong hai tập Thơ Đường Tập I và Tập II từ những năm Sáu Mươi của thế kỷ trước, với những bản dịch tuyệt vời của Ngô Tất Tố, Tản Đà, Khương Hữu Dụng, Nam Trân, Tương Như, Nhượng Tống…Có những bản dịch ai cũng thuộc tự thuở nào và cứ tưởng ca dao, như thơ của Lý Thân (772-846), viết cách chúng ta hơn một ngàn năm. Tôi muốn bàn về trường hợp này. Vì nó là bài học cho ta về dịch thơ. Lý Thân có bài Mẫn nông I và II (Hiểu nôm na là Thương xót nhà nông) Bài I: Xuân chủng nhất lạp túc/ Thu thâu vạn khỏa tử/ Tứ hải vô nhàn điền/ Nông phu do ngã tử (Ngày xuân gieo một hạt thóc/ Mùa thu thu hoạch vạn hạt/ Khắp nơi không có ruộng bỏ hoang/ Mà nông phu vẫn chết vì đói).
Một nhà thơ nổi tiếng đã dịch: Mùa xuân gieo một hạt con/ Vào thu gặt vạn hạt tròn về tay/ Ruộng nương khắp chốn giăng bày/ Nhà nông có kẻ chết vì thiếu ăn.
Và bài II: Sừ hòa nhật đương ngọ/ Hãn trích hòa hạ thổ/ Thùy tri bàn trung xan/Lạp lạp giai tân khổ/ ( Cày lúa ngày đang lúc trưa/ Mồ hôi giọt xuống chân cây lúa/Có ai biết rằng bát cơm trong mâm/ Mỗi hạt đều là đắng cay cực khổ. Một nhà thơ khuyết danh nào đó đã dịch: Cày đồng đang buổi ban trưa/ Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày/ Ai ơi bưng bát cơm đầy/ Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần. Cả hai bài thơ đều hay. Bài II đơn giản, chỉ là nỗi khổ của nông dân khi làm ra hạt gạo thôi. Nhưng người dịch quá giỏi. Bản dịch nhuần nhuyễn, giản dị, sâu sắc đến ám ảnh. Đọc qua là thuộc ngay, đến nỗi chúng ta còn nhầm là ca dao. Bài I mới thực sự xuất sắc. Chỉ phong phanh mấy chữ, mà ta thấm thía nỗi đau của nông dân, cũng hiểu được chế độ thuế khóa của xã hội phong kiến xưa tàn bạo đến thế nào. Một kiệt tác mà chết yểu vì bản dịch tồi. Qua đó đủ biết, vai trò của người dịch quan trọng như thế nào. Hay như sự linh diệu của thơ Thôi Hiệu qua bản dịch Tản Đà: Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng cử nhân sầu – (Trời tối rồi mà không biết quê hương ở đâu/ Trên sông khói sóng làm người buồn) Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai… Câu thơ thật, nhưng dịch rất ảo, thành nỗi ám ảnh đối với Huy Cận: Lớp lớp mây cao đùn núi bạc/ Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa/ Lòng quê rờn rợn vời con nước/Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Thôi Hiệu phải nương làn khói sóng trên sông mới nhớ nhà. Còn Huy Cận thì không cần đến ngọn khói ấy cũng đã nhớ nhà rồi. Nhà thơ Huy Cận đã có lần tâm sự với tôi như thế. Nhưng nếu không có làn khói sóng Thôi Hiệu ấy, đã chắc gì có Tràng giang, một kiệt tác đặc sắc nhất, toàn bích nhất trong đời thơ Huy Cận?
Để có một bản dịch hay, tôi nghĩ dịch giả cần phải có ba yếu tố: Phải rất giỏi ngoại ngữ. Điều ấy là dĩ nhiên rồi. Phải rất giỏi tiếng Việt. Không phải người Việt nào cũng giỏi tiếng Việt. Và Phải có tài thơ. Thiếu một trong ba yếu tố ấy đều không thể thành công. Cha ông ta dịch Thơ Đường rất công phu. Bản dịch nào cũng có ba phần: Nguyên bản, Dịch nghĩa và cuối cùng mới là Dịch nghệ thuật, mà các cụ gọi là Dịch thơ. Và như thế, bản Dịch nghĩa không phải thơ. Bây giờ, thường dịch thơ, chúng ta bỏ cách làm này. Đấy là một điều đáng tiếc. Vô tình, chúng ta cổ súy cho việc dịch ẩu. Người đọc không có căn cứ, cơ sở để kiểm định. Và rồi trong các sáng tác, có người tìm tòi, nhưng lại không làm thơ, chỉ dịch nghĩa từ tiếng Việt sang tiếng Việt tác phẩm của mình và gọi là thơ không vần. Dịch nghĩa đâu có phải thơ, cũng không phải thơ không vần. Thơ không nhất thiết phải có vần. Nhưng thơ không vần, nó vẫn phải là thơ. Với từng câu thơ, nhạc điệu thơ, hình tượng thơ, ngôn ngữ thơ. Chứ không phải những câu văn xuôi xuống dòng. Tôi rất quý Thái Xuân Nguyên. Anh nghiêm túc trên từng bản dịch. Tác phẩm dịch nào của anh cũng có đầy đủ cả ba phần. Phần Nguyên bản. Phần Dịch nghĩa và phần Dịch thơ. Đây không phải mới mẻ gì. Thái Xuân Nguyên trở về với truyền thống dịch thuật của cha ông. Các cuốn sách của anh có độ phổ cập rất rộng, phù hợp với nhiều đối tượng: Người yêu thơ, muốn hiểu bài thơ chi tiết, ngọn ngành, Người dịch thơ, đặc biệt là các học sinh, sinh viên và những ai muốn học ngoại ngữ. Người đọc thông thường cũng thấy rất thú, vì hiểu cặn kẽ bài thơ, lại biết được công phu của việc chuyển những ý nghĩa bình thường thành một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh.
Không phải chỉ một Thái Xuân Nguyên, nhân một trăm năm ngày mất của X. Exenhin, nhiều người cũng cho ra mắt những tập thơ chọn của X. Exenhin. Nhà thơ dịch giả Tạ Phương cũng có tuyển tập X. Exenhin do nhiều người dịch rất công phu. Trong tập, ông còn đưa cả chuyên luận của nhà nghiên cứu Đào Thị Anh Lê về quá trình thơ X. Exenhin xuất bản ở Việt Nam. Cũng theo nhà nghiên cứu, thì người đầu tiên dịch X. Exenhin là nhà thơ Xuân Diệu. Xuân Diệu dịch một bài thơ tình của X. Exenhin theo bản dịch nghĩa của Thúy Toàn năm 1962. Nhưng theo Giáo sư, dịch giả Vũ Thế Khôi, thì ngay từ trong kháng chiến, năm 1952, cụ Lê Văn Hòe đã dịch X. Exenhin rồi. Cụ dịch qua tiếng Pháp. Có lẽ cụ mới là người đầu tiên dịch X. Exenhin ở Việt Nam. Bây giờ thì người dịch X. Exenhin nhiều lắm. Thơ X. Exenhin xuất hiện trong nhiều tuyển tập, nhiều tập thơ riêng. Thơ ông còn vào cả chương trình Ngữ Văn của học sinh lớp 12. Bản thân tôi cũng đã dịch hơn chục bài thơ của ông. Đóng góp của nhà thơ dịch giả Thái Xuân Nguyên trong 100 bài thơ tuyển lần này, là ông đã chọn được nhiều bài thơ mới, chưa dịch ở Việt Nam. Trong đó có những bài rất quan trọng, giúp ta hiểu cuộc đời và sự nghiệp của X. Exenhin. Trong đó có những bài rất khó dịch, mà các dịch giả đi trước lảng tránh. Bản thân tôi cũng đã dịch nhưng rồi lại bỏ. Bỏ không phải khó dịch, mà dịch khó hay. Hoặc là rất nhạt. Hoặc chỉ lổn nhổn có ý mà mất thơ. Đấy là cái khó mà Thái Xuân Nguyên phải vượt. Và không phải lúc nào anh cũng vượt được.
Hồi còn học Nga, tôi đã đến nhà X. Exenhin nhiều lần. Đó là căn nhà gỗ. Tường nhà cũng được xếp bằng những cây gỗ còn nguyên cả vỏ. Đấy là kiểu nhà truyền thống của những người nông dân Nga xưa. Quanh nhà là một khu vườn rộng lúc nào cũng ầm ĩ tiếng quạ. Bố mẹ X. Exenhin rất nghèo. Tuổi thơ ông sống với ông bà ngoại. Nhà theo đạo công giáo. Có lẽ vì thế mà ở bất cứ phòng nào trong ngôi nhà này, kể cả ở gian bếp, nhìn qua ô cửa sổ, ta cũng thấy ngọn tháp nhà thờ cổ kính. Sau nhà thờ là cánh đồng cỏ. Vắt qua khu đồng cỏ là dòng sông Ô-ka nằm mơ màng trong khói sương. Đây là nơi lưu giữ không gian thơ của Xéc gây Exênhin. Lò nướng bánh mì của cha. Tấm áo choàng của mẹ. Gian bếp với ấm Samôva. Chiếc vali cói cùng Xéc gây lần đầu ra thành phố. X. Exenhin đã viết khá
nhiều thơ về vùng đất này. Làng quê giờ vẫn vậy. Vẫn còn cây bạch dương, nơi Xéc gây từng ngồi chơi với bạn chăn cừu. Chính người bạn “bằng gỗ” này đã kể cho Xéc gây nghe chuyện anh bạn chăn bò đã đến đây ngồi khóc về mối tình không thành với một cô gái quê. Xéc- gây cũng hiểu được bao nỗi niềm của cây, cả những nỗi buồn giấu trong từng thớ gỗ. Bây giờ, cây bạch dương đã trên trăm tuổi, mà trông vẫn xanh mướt. Hình như chính những câu thơ có sức sống vĩnh cửu của Xéc gây đã giữ cho cây không có tuổi già.
Tôi cứ băn khoăn mãi về một câu thơ của Xéc-gây trong bài “Thư gửi mẹ”.
Câu thơ rất đơn giản, câu chữ cũng chẳng có gì phức tạp, nhưng tôi cứ lật đi lật lại
mãi mà vẫn không sao hiểu được. Nếu dịch cho thật sát nghĩa: “Con sẽ trở về khu
vườn trắng của nhà ta”. Tại sao lại là khu vườn trắng? Vườn chìm trong tuyết chăng? Tôi đã thấy những khu vườn Nga trắng xoá trong tuyết. Trắng đến chói chang. Trắng đến nhức mắt. Cây cối rụng hết lá, chỉ còn những thân cành trần trụi, khô khỏng. Đi trong vườn mà ta có cảm giác như lạc dưới đáy biển. Tuyết đã đắp cho cây thành một rừng san hô trắng xoá. Nhưng mùa xuân đến rồi, làm sao còn tuyết nữa? Vậy thì sao khu vườn lại trắng được? Tôi mang nỗi băn khoăn ấy về thăm căn nhà của Xec gây ở làng Kontanstinovo, tỉnh Riazan, đúng vào dịp mùa xuân như Xéc gây đã viết. Đối với nước Nga, mùa xuân là mùa tưng bừng nhất trong năm. Sau một thời gian dài đến gần sáu tháng, cây cỏ, đất đai ủ sâu trong tuyết. Mùa xuân, tuyết bắt đầu tan. Cây cối đâm chồi nảy lộc. Tất cả đều hối hả, gấp gáp. Bắt đầu là những búp non, chỉ sau một đêm, nhìn đã thấy khác. Rồi qua mấy ngày, cả khu vườn đã óng nuột, mỡ màng. Lá và hoa cùng trổ một lúc. Có khi hoa nhiều hơn cả lá. Hoa phủ kín vòm cây. Cả khu vườn của Xéc gây trắng xoá những hoa. Hoa mận. Hoa táo. Hoa tử đinh hương. Và bạt ngàn hàng trăm thứ hoa khác mà tôi chịu không thể biết được tên. Căn nhà gỗ của Xéc gây ướp trong làn hương thơm ngào ngạt. Đến 8 giờ tối rồi mà ngôi nhà vẫn rực lên trong quầng sáng kỳ lạ. Đó là thứ ánh sáng toả ra từ hoa. Tôi chưa gặp ở đâu vùng sáng kỳ ảo, mộng mị và ma quái đến như thế. Chỉ lúc ấy, tôi mới thấm thía câu thơ rất đơn giản của Xéc gây và thấy nó hay đến lạ lùng. Bài thơ này đã vào chương trình học của lớp 12 qua bản dịch của nhà thơ Anh Ngọc. Nhiều người cũng đã dịch. Nhưng họ đều bỏ chi tiết “Vườn trắng” này. Thái Xuân Nguyên chưa đến nhà X.Exenhin, nhưng anh đã từng ở Nga, nên hiểu đúng thần thái của nó:
Con sẽ về khi vườn nhà trắng hoa
Vào độ xuân sang, cây vươn cành nảy lộc
Chỉ có điều xin mẹ đừng đánh thức
Mỗi sớm bình minh như tám năm xưa…
X. Exenhin rất yêu căn nhà mình, rất yêu nước nga bằng gỗ, cùng thiên nhiên, mây nước, hoa cỏ. Ông đặc biệt rất dị ứng với sắt thép công nghiệp hóa. Trong bài thơ Tôi là nhà thơ cuối cùng của làng quê, ông nhìn chiếc máy cày, máy gặt như một kẻ vô cảm bằng sắt mà ông gọi là người khách sắt:
Trên đường mòn của đồng xanh trải dài
Không lâu nữa xuất hiện người khách sắt
Bằng bàn tay đen, hắn thu gom lúa mạch
Dưới ánh bình minh lan tỏa mênh mang
Những bài hát này không thể ca vang
Vì bàn tay vô hồn, bàn tay xa lạ!
Chỉ bông lúa vàng với bầy ngựa đó
Sẽ buồn rầu nhớ chủ cũ thôi…
Chính vì thế, khi viết về X. Exenhin và làng quê ông, tôi đã khắc họa:
Những ồn ào sắt thép/ Chìm khuất ở phương nào/ Ven hồ thu vàng rực/ Cây cỏ nằm chiêm bao/ Nước Nga rời thành phố/ Về náu mình nơi đây/ Để tâm hồn ở lại/
Làm một làn sương bay…
Xung quanh cái chết của X. Exenhin, báo chí Nga thời cải tổ bàn đến khá nhiều. Có người cho rằng, Xecgây bị Stalin bức hại. Điều này rất khó có sức thuyết phục. Bởi X. Exenhin mất cuối năm 1925. Từ năm 1930 đến năm 1937 mới thực sự căng thẳng. Đối với giới chính trị, đặc biệt là Stalin, văn nghệ sĩ chỉ là một thứ con hát, chẳng có gì quan trọng. X. Exenhin không phải đối thủ của Stalin, chỉ là anh du thủ du thực. Vậy thì ông ta bức hại Xecgây để làm gì? Cũng có người cho rằng, Xecgây tự tử vì tình ái. Điều này cũng khó tin nữa. Bởi Xec-gây là thi sĩ rất nổi tiếng. Lại thư sinh, đẹp trai. Đi đâu ông cũng được công chúng yêu mến, đặc biệt là các cô gái. Tôi không tin những tài năng lớn, những tâm hồn lớn như ông lại chết đuối trong một cái đĩa đèn. Lần giở những sáng tác của Xecgây Exenhin những năm cuối đời, đặc biệt là năm 1924-1925, ta thấy ông sống rất nặng nề. Tâm trạng thất vọng, u uất ấy phản ánh rất rõ trong bài thơ Con người đen tối; viết năm 1924. Xecgây Exenhin rất yêu Lênin và ông luôn hướng về Cách mạng Tháng Mười. Nhưng rồi ông lại thất vọng, vì cuộc đời đâu có đơn giản như ông nghĩ. Trong bài “Thư của mẹ”, Xec-gây đã thuật lại bức thư của mẹ viết cho ông từ làng Contanstinovo:
Hãy về đi, con bồ câu của mẹ
Con hãy trở về vào ngày lễ nhé
Nhớ mua cho mẹ cái khăn San
Mua cho bố cái tẩu
Ở nhà ta bây giờ
Vô cùng túng thiếu
Mẹ chẳng muốn mình mang nỗi âu lo
Rằng con là nhà thơ
Con đã kết bạn bầu
Với niềm vinh quang tồi tệ
Sẽ tốt hơn rất nhiều nếu từ ngày thơ bé
Con chỉ giản đơn là một thợ cày…
Tôi đã dịch như thế. Nhưng rồi tôi bỏ. Vì rất khó dịch. Nếu có dịch được cũng rất khó hay, vì chỉ có chi tiết, có vụ việc mà không thấy thơ. May mà Thái Xuân Nguyên đã dịch. Anh dịch cũng vất vả. Tôi thấy rất rõ nỗi vất vả ấy trong từng con chữ của anh:
Mẹ giờ đây già yếu đi nhiều
Sức khỏe đã hoàn toàn tồi tệ
Giá ngay từ đầu con ở nhà với mẹ
Mẹ đã có con dâu và cháu nội đùa vui
Nhưng con cái mình con vung vãi khắp nơi
Cả vợ cũng dễ dàng trao kẻ khác
Không gia đình và cũng không bè bạn
Chẳng có nơi nào là bến đỗ bình yên
Chỉ vùi đầu vui thú với ma men…
Rồi bà kể cho con trai nghe về bọn chính quyền địa phương đã đến nhũng nhiễu, o ép gia đình cũng như bà con dân làng khốn khổ đến như thế nào:
Giờ chỉ còn nỗi buồn cứ mãi bám đeo
Chúng ta sống trong bóng đêm đen tối
Con ngựa kéo cày cũng không có nổi
Nhưng giá con ở nhà
Với trí thông minh sắc sảo tài hoa
Thì mọi thứ mẹ cha có tất
Ngay cả trong chính quyền xô viết
Chức chủ tịch xã kia chắc hẳn về con
Cuộc sống gia đình mình cũng dễ chịu hơn…
Tôi trích hơi dài. Bởi đây là bài thơ rất chân thực, phản ánh thực trạng của gia đình ông, số phận ông. Xec gây đau đớn lắm. Ông tâm sự với mẹ trong bài Thư trả lời. Bài này Thái Xuân Nguyên không dịch, nhiều dịch giả khác cũng lảng tránh, bởi dịch rất khó hay. Lại chạm đến những vấn đề nhạy cảm. Tôi chỉ lược dịch mấy câu. X. Exenhin tâm sự với mẹ:
Cả nước Nga bây giờ
Chỉ là một hành tinh lạnh buốt
Mà vầng mặt trời Lê nin
Cũng không sưởi ấm được
Chính vì thế, con buồn
Uống rượu, đánh nhau và đi lang thang…
X. Exenhin rất yêu Cách mạng Tháng Mười, luôn hướng về Cách mạng Tháng Mười. Chính ông cũng đã nói rõ như thế. Rồi ông nương vào tôn giáo. Và rồi ông cũng lại thất vọng. Ông tâm sự với mẹ: Thôi mẹ cũng đừng dạy con cầu nguyện nữa/ Không có con đường quay về dĩ vãng đâu…Sau đó gần một năm, Xécgây Exenhin đã treo cổ tự tử. Trước khi chết, ông có bài thơ tuyệt mệnh, rất đắng đót: Trên đời này chết không có gì mới/ Nhưng sống thực tình cũng chẳng mới gì hơn. M. Gorki, và cả Maiakovxky cũng cho rằng đó là một quan điểm tiêu cực, rất độc hại với lớp trẻ. Maia Kopxki từng có bài phản đối, chống lại quan điểm đó của X. Exenhin, nhưng rồi chính ông sau đó cũng lại tự kết liễu bằng viên đạn bắn vào đầu mình.
Tôi thường xuyên đến thăm ngôi mộ của ông trong nghĩa trang Danh Nhân Maxcova. Bên cạnh ngôi mộ lớn có bức tượng ông tạc bằng đá trắng, là ngôi mộ của một người con gái trẻ. Cô là người yêu của ông. Cô cũng đã tìm đến cái chết ngay sau khi X. Exenhin qua đời. Trong phiến đá hoa cương trên mộ cô là dòng chữ: “Anh không thể thiếu em. Nếu không có em, đời anh chỉ còn bóng tối giá lạnh và tiếng khóc – X. Exenhin”. Ngay trên sơ đồ ở cổng nghĩa trang, người ta cũng đã chỉ dẫn đường đến mộ ông, dù trong nghĩa trang có rất nhiều nhà thơ, nhà văn, họa sĩ, nhạc sĩ nổi tiếng thế giới. Vào mùa đông, tuyết trắng trời trắng đất, hoa rất đắt, một bông hồng giá đến 7 rúp, bằng tiền mua một cái bàn là. Nhưng ngày nào X. Exenhin cũng nằm dưới cả một núi hoa hồng. Mỗi ngày, ban quản lý nghĩa trang lại phải đưa xe tải đến để chở hoa đi, lấy chỗ cho người đến sau đặt hoa. Chỉ thế, đủ biết bạn đọc yêu Xecgay Exenhin đến mức thế nào.
Bấy lâu nay, chúng ta đã bàn khá nhiều về việc giữ gìn bản sắc dân tộc. Cuộc đời và tác phẩm của Xéc gây Exenhin đã cho ta bài học khá thú vị về vấn đề cấp thiết này. Sở dĩ tác phẩm của Xéc gây Exenhin được đông đảo bạn đọc thế giới đón nhận nồng nhiệt vì ông là nhà thơ rất Nga và cũng rất nhân loại. Chỉ Dân tộc thôi không đủ, bởi nhiều khi chính tính Dân tộc lại giam hãm ta trong vũng ao tù, cô lẻ, phải có tính nhân loại nữa thì mới ra được với thế giới rộng lớn. Dường như suốt đời, Xéc gây chỉ viết về cái làng quê nhỏ bé của mình. Nhưng để viết hay về cái làng quê nhỏ bé ấy, Xéc gây lại phải đi ra với thế giới rộng lớn. Xéc gây rời khỏi làng quê từ năm 17 tuổi, nghĩa là còn ở tuổi vị thành niên. Ông lang thang ở Matxcova, Xanh-Peterbua. Không những thế, ông còn lấy vợ Mỹ, rồi sống ở Pháp, ở Ý, ở Mỹ và nhiều vùng đất khác nhau trên thế giới. Nhưng ông có giành cho những nơi ấy một chữ nào đâu. Bằng con mắt rộng lớn của nhân loại, ông ngắm lại con bò, con chó, cây bạch dương và hồ nước cụ thể ở cái làng quê nhỏ bé của mình. Chính vì vậy, ông phát hiện được những vẻ đẹp Nga, những tinh chất Nga, mà nhiều khi ở làng quê, ở trong nước lại không thể nhìn ra được. Chính vì thế mà
tác phẩm của ông mới có tầm nhân loại. Và chỉ khi có tầm nhân loại, nó mới vượt qua được ao hồ đồng ruộng Riazan, vượt qua cả những dãy núi sừng sững của biên giới nước Nga mà đến được với bạn đọc toàn cầu. Nếu ông chỉ quanh quẩn trong làng Konstantinovo, biết đâu ông chỉ là một nhà thơ tỉnh lẻ.
Cảm ơn Thái Xuân Nguyên đã kịp hoàn thành tập thơ dịch này, đặc biệt là những bài còn khuất lấp mà chúng ta không biết, nhưng nó cho chúng ta có cái nhìn tổng thể toàn diện về X, Exenhin. Tất nhiên không phải bài bài thơ nào anh dịch cũng hay. Bởi thơ rất khó dịch. Thơ X. Exenhin lại càng khó dịch. Vì nó rất thông thường. Nhưng có điều ta có thể nhận thấy, tập tuyển dịch này là một công trình công phu, có tính khoa học nghiêm túc. Hy vọng cuốn sách sẽ được bạn đọc yêu thích…
Hà nội 20-8-2025 TĐK
P/S: Sách dày 440 trang in đẹp, giá bìa 199k. Bác nào có nhu cầu thưởng thức hay tìm hiểu về thơ Ê-xê-nhin hãy liên hệ qua messenger nhé. Trân trọng cám ơn.
tay-bac7
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét