Nhắm rượu với “CƯỠNG XUÂN”
- thơ Đặng Xuân Xuyến
Nguyễn Thanh Lâm
*
Tôi có thói quen mỗi lần đọc thơ, khi gặp một câu hay, ý lạ thường tự
thưởng cho mình một ly rượu - thắp lửa ở lòng mình, thả hồn lang thang trên
ngọn nguồn, bến bờ say của câu chữ. Và hôm nay đọc tập: Cưỡng Xuân của
Đặng Xuân Xuyến, không cưỡng nổi lòng mình, không thể hoãn cái sự sướng, tôi
nhắm rượu với thơ.
Sao lại Cưỡng Xuân? Người ta thường nói đón xuân, khao khát mùa xuân về, có
người rẽ lá vàng chặn lối xuân đi và chặn nẻo xuân về; có thể yêu xuân và thù
hận mùa xuân, nhưng Cưỡng Xuân thì chưa có ai dám “liều” như nhà thơ
Đặng Xuân Xuyến.
Mùa xuân như thiếu nữ huyền bí trong vẻ non tơ mà nhà thơ dám cưỡng xuân
sao? Không thể! Nhưng nhan đề tập thơ là “Cưỡng Xuân” rất lạ, gợi trí
tưởng tượng, hoang mang, mời gọi tìm hiểu. Ôi “Cưỡng Xuân”! Mới nghĩ đến thôi
đã thấy lạ và không khỏi giật mình.
Và tôi như kẻ vụng trộm lắng nghe tiếng nói thì thầm của đôi trai gái: “Em
gạ một đêm chồng vợ/ Cho mùi da thịt thơm hương”, và tiếng chàng trai” “Ừ
thì, một đêm thôi nhé/ Mai đừng nữa gạ một đêm.”
Gạ thôi, rủ yêu thôi, có cưỡng gì đâu! Nhưng tình yêu đến với tình yêu,
thực sự như lửa gặp lửa sẽ hòa đồng cùng cháy sáng. Không mặc cả, không gạ gẫm,
chàng trai bằng lòng một đêm mà vẫn lo xa: “Kẻo trời cao mà ngẫu hứng/ Trói
đời anh vào với em”.
Thì ra là vậy. Sự lo lắng của chàng trai đã vén màn bí mật của “Cưỡng
Xuân”. Là sự lạ trong tình yêu mà cũng rất đời thường.
Cái sự lạ trong đời thường không khoác áo đạo đức, mà lại rất hồn nhiên: “Rỉ
rắc mưa/ Rét ngọt trở mùa/ Em vê tròn ném tôi vào cơn lốc... / Vít cổ xuống/
Cong người/ Em rướn… / Em…”
Cưỡng xuân ở đây là sự cưỡng của cơn say “Ném tôi vào cơn lốc” và sự
run rẩy của bàn tay, bản năng không lý trí: “Vít cổ xuống/ Cong người/ Em
rướn...” theo bản năng yêu... và tiếng “Em” cuối cùng như tiếng thở
gấp, đưa tình lên đỉnh… cõi bồng lai.
Tôi tự hỏi, tình yêu điên cuồng mê dại như thế có phải là “Cưỡng” không?
Muốn đem lý thuyết phân tâm của F.Rớt để trả lời mà không thể, mọi lý thuyết
đều “mất điện” trong tình yêu.
Hãy nghe trong giấc “Mơ Đêm” - “Cuống cuồng vòng tay ghì hơi ấm”
- Chỉ ngôn ngữ của thơ mới “ghì hơi ấm”, chỉ “khi tỉnh rượu/ lúc tàn
canh” nhà thơ mới tự thương mình, giật mình xót xa cho mình. “Giật mình/
Ánh mắt nửa đêm/ hun hút đại ngàn gió hú.../ Thèm trận cuồng lũ/ Dào dào trùm
ải chờ mưa/ Khát...”
Khát là sự đòi hỏi của thể chất, khi khát cần uống, khi đói thèm ăn, nhưng
cái khát trong tình yêu dày vò ở tâm, ở tim, linh thiêng và gần với thánh thần
hơn. Cái khát thể hiện bằng thơ: “Trăng vàng lả lướt bến sông/ Đắm hồn tôi
với mênh mông gió trời” (Mơ). Khát trong cả giấc mơ là cái khát
không bờ, không bến. Và khi đã khát thì ở đâu cũng khát. Cái khát của tình yêu
không có nhà, không nơi ẩn náu mà ở đâu cũng thành quê hương.
Một chiều lạ “Sợ đêm về/ quẩn gió/ xáo xác khuya…/ Te tẻ chiều/ nhớn
nhác/ nhón chân qua”. Chỉ cái khát của tình yêu - của thơ mới nhận ra vị “te
tẻ chiều”, nếm được tiếng “xáo xác khuya”, thức ngộ bao chiều mà
chiều vẫn lạ.
Tôi đọc bài “Khát” (Lời đề tặng V. yêu). Không biết V. yêu có phải
là vợ yêu không mà sao giống tình vợ chồng đến vậy. Ở đây không có sự “Cưỡng
Xuân” mà rất tự nguyện: “Nào nằm xuống/ Vùi ngực anh/ Dán chặt…/ Dòng nham
thạch cuộn từng cơn nóng hổi/ Thế. Thế. Thế/ Căng người/ Em hứng đợi.../ Thỏa
thuê từng cơn khát/ Em. Em ơi… đêm sắp qua rồi...”.
Tình cảm vợ chồng ngoài cái say, cái yêu thuần khiết, còn có cái say, cái
yêu nghĩa vụ. Nhưng ở đây hoàn toàn thăng hoa “Căng người/ hứng đợi”, và
sự giục giã “Em. Em ơi... đêm sắp qua rồi” thì không thể yêu nghĩa vụ
chút nào, mà cao hơn cơn khát yêu của vợ chồng. Nhưng nhà thơ đã tự tố cáo
mình, trong thơ không thể dối được. Vợ chồng thì có đêm nay và nhiều đêm nữa,
việc gì phải vội, phải sợ không còn nữa mà phải hổn hển “Em. Em ơi… đêm sắp
qua rồi.”.
Vâng. Cơn khát này cao hơn, đằm hơn cơn khát vợ chồng nên không phải vợ
chồng mới có chất say - Chất khát của tình yêu!
Lai một bài “Đêm” nữa tặng V. yêu. Cơn khát nóng ran làm “Đêm bức
bối”, màn đêm như bị căng ra và nén lại: “Em đè ta nghiến ngấu/ Đêm
chuyển màu”.
Đêm chuyển màu gì vậy? Họa sỹ thực thụ có thể biết 180 màu đen, nhưng màu
đêm của tình yêu chỉ tình yêu mới biết, màu của “đêm lõa lòa/ rần rật/ đốt
thịt da.”.
Ôi! Tình yêu đã truyền vào đêm sức sống, truyền một ngôn ngữ linh thiêng -
thần bí mà rất đời.
Khát, yêu, nhớ là mạch đập liên hoàn trong trái tim yêu, cứ tưởng nhớ là
phải xa xôi, cách mặt nhưng nhớ của Đặng Xuân Xuyến như hiện thực trông thấy rõ
ràng, như cuốn phim đời: “Đêm tỉnh giấc/ Khát mắt cười chiều qua lăn trên
chiếu/ Căng người/ run rẩy cuộc yêu... / Gió trườn qua khe cửa”.
Đã yêu, ai chẳng nhớ, nhưng nhớ rất chi tiết “Gió trườn qua khe cửa”
- gió như một chứng nhân có lẽ chỉ nhà thơ mới có. “Gió trườn qua khe cửa”
là ngọn gió có linh hồn, ngọn gió vàng xoa dịu và mát lành cõi phàm tục của
tình yêu.
Sếch-xpia bảo: Tình yêu như người cung thủ bịt mắt mình, phóng mũi tên tình
yêu đi đến đâu không cần biết mà vẫn trúng đích.
Trong cái mê, có cái ngộ, cái biết, và phải trải qua bến mê mới thấy bờ
giác. Đặng Xuân Xuyến đã ngồi thiền dưới gốc cây bồ đề tình có biết bao năm để
ngộ chăng? Cứ tính từ ngày vợ chồng Xuyến chia tay, hay cộng cả trước và sau
thời gian ấy mới đắc đạo tình hay đốn ngộ. Đốn ngộ là đột biến, đắc đạo là sự
tiêm ngộ. Theo tôi thì Đặng Xuân Xuyến trải qua bao đổ vỡ, hẫng hụt, khổ đau mà
đắc ngộ.
Hãy nghe về sự ngộ, sự biết của anh: “Ừ biết/ Em rồi chẳng đợi/ Mà lòng
chẳng lỡ buông lơi/ Ừ biết/ Chỉ lời giả dối/ Mà tin, tin đến cạn lời”.
Biết em không thật mà lòng vẫn tin là sao? Hãy lấy lòng khát yêu để trả lời
cho câu hỏi này. Hãy lấy sự “Cưỡng Xuân” - Gượng yêu làm chìa khóa mở ra tâm
hồn nhà thơ.
Nhà thơ vẫn khát thèm yêu nên dù biết rằng “em chẳng đợi”, chẳng yêu
mình mà vẫn gượng yêu, gượng tin, thậm chí còn mong nàng nói dối là yêu mình
còn hơn phải nghe những lời phũ phàng nói thẳng - không yêu. Ta nhận ra nhân
cách đẹp của nhà thơ chính ở sự phi lý này.
“Thôi thì sắm vai người dại/ Ngô nghê với tháng năm dài”. Trải qua
những khổ đau, những cơn khát, Cưỡng xuân, Đặng Xuân Xuyến chấp nhận “Dại
Yêu”, chấp nhận “Niềm vui dẫu chỉ nửa vời/ Có sao đâu/ Vẫn cứ ngời ngợi
hương/ Chỉ tôi/ Chín nhớ/ Mười thương/ Đủ rồi”.
Đọc những dòng thơ, như nghe tiếng nước mắt chảy ngược vào tâm, giọt nước
mắt long lanh ánh sáng thức ngộ - Thức ngộ sau chén say, mê đắng của tình yêu:
“Ta gạ em cạn chén/ Thế là em cạn ta.../ Nửa đời trai trinh bạch/ Em nhuộm
ta ngả màu”.
Màu của tình yêu là màu gì vậy? Là bảy sắc cầu vồng sau chiều mưa chăng?
Không! Màu tình yêu là muôn màu, màu của hạnh phúc và khổ đau, không họa sĩ nào
vẽ nổi, nó biến ảo trong không gian, thời gian, trong tâm thức mỗi người.
Với Đặng Xuân Xuyến là màu say đắm và màu “Chán Yêu” hòa quyện, là
màu “Bồng bềnh người ơi/ Mây tím lưng trời” chìm vào “nụ cười bạc
phếch/ Xộc xệch tình.../ Lếch thếch tiếng yêu.”
Tôi tìm thấy ở Đặng Xuân Xuyến màu của “Đêm trở mình nhiều hơn/ Tóc dầy
thêm sợi bạc”. Và đặc biệt ở Đặng Xuân Xuyến là màu của tình yêu máu thịt
với cậu con trai - cái màu máu thiêng liêng của tình cha con đã giải thiêng mọi
màu sắc của tình yêu lứa đôi. “Lặng nhìn con nằm ngủ/ Ngổn ngang nỗi tơ vò”.
Sau màu yêu ngày tươi đẹp đã qua, con chim thi ca vẫn cất cao giọng hót
nhưng không còn là bản tình ca réo rắt mà là giọng to nhỏ thì thầm: “Mình
già rồi anh nhỉ/ Thời gian thế mà nhanh/ Mới vài chuyện loanh quanh/ Tóc đã pha
màu bạc.../ Giọng thoảng nghe khang khác/ Mình già rồi mà anh.”
Không ai khuất phục được thời gian, không ai ở mãi trên đời, yêu đương...
mê ngộ một thời rồi đi. Và Đặng Xuân Xuyến cũng nằm trong quy luật của thời
gian như mỗi chúng ta. Chính vì hiểu quy luật của thời gian mà anh đã “Cưỡng
Xuân”, anh “Cưỡng Xuân” và xuân cũng cưỡng anh.
Nhà thơ “Lánh Yêu” mà vẫn bị yêu: “Sao chẳng nói yêu từ sớm/ Khi
anh đương còn trẻ trai/ Bây chừ lừ đừ, lọm khọm/ Nào ai dám mộng với ai.”.
Nhà thơ trách cô gái trẻ chậm nói lời yêu nhưng trong lòng tự biết tuổi của
mình, sức đã “chồn chân mỏi gối”, lòng thèm yêu lắm nhưng “Chỉ e nhỡ đường
ân ái/ Khiến em đứt ruột chiều tà.”
Tôi cam đoan rằng: Tuổi của Đặng Xuân Xuyến mới 52 còn tràn đầy sinh lực,
chưa “chồn chân mỏi gối” tí nào, anh như con chim bị trúng thương tình
ái, đổ vỡ duyên vợ chồng nên sợ “cành cây cong” như chiếc cung thôi. Và chất
quê Hưng Yên ở trong máu còn thắm chưa phai, chưa nhiễm chất thị thành, nên thèm
yêu mà vẫn lo xa.
Lo xa nên nhà thơ mới tỏ tình với ngôn ngữ dân dã chân thành: “Em có cần
anh không/ Nếu cần hãy cùng anh chung sống”. Chữ “cần” mộc
mạc mà rất thơ mang nặng tâm tình. Tình yêu cần tình yêu như con người cần
không khí để sống. Thiếu sự “cần” ấy - thiếu không khí - có ai sống được bao
giờ. Bài thơ “ Chu ng”, tôi đã bình rồi, không bình lại nhưng vẫn bị sự mộc mạc
của câu thơ “Em có cần anh không” níu kéo. Tôi đành nhắp thêm chén rượu
nữa cho hồn say với sự “cần” yêu.
Thơ của Đặng Xuân Xuyến chưa đến bực tài hoa, mà là thơ của nỗi lòng, tình
yêu và sự đớn đau trong tình yêu nâng hồn anh thành cánh chim bay đến phía sau
của chân trời tình yêu và trở về với hồn quê - Đất nhãn Hưng Yên: “Về đi em!
Về ngắm trăng buông/ Câu mái đẩy lèn sâu ký ức/ Dựa vai anh ngắm đời rất thực/
Cổ tích trầu cau đã hết nhựa rồi.”.
Nếu có tài họa sĩ, tôi sẽ vẽ bức tranh đồng quê, có đôi trai gái ngồi ngắm
trăng buông. Cô gái tựa vào vai chàng trai, ngắm trăng trời và nghe trăng ở
lòng thổn thức. Nhưng vẽ “Cổ tích trầu cau đã hết nhựa rồi” thì thật
khó. Chỉ có thơ, hồn thơ quê của Đặng Xuân Xuyến mới vẽ được. Tôi nhắm câu thơ
này cho rượu thêm hương.
Rượu và thơ dẫn tôi đi, tôi lang thang trong sự “Cưỡng Xuân” của
Đặng Xuân Xuyến. Mỗi bài thơ như cưỡng tôi yêu, và tôi bằng lòng với sự cưỡng
yêu ấy.
Tôi bị cưỡng vào những khao khát và những giấc mơ, mà từ những khát khao và
những giấc mơ ấy tôi lại được trôi dạt tới bờ bến của dại khờ. Ôi! Sự dại khờ
trong tình yêu như một cõi tiên. Trên đảo bồng lai của dại khờ tôi gặp tôi, gặp
những khát khao chân thực của tình người. Tình yêu cần sự dại khờ hơn khôn
ngoan.
Có phải yêu thật lòng quá thành dại khờ nên Đặng Xuân Xuyến đã “Cưỡng Xuân”
chăng. Tôi nghe thẳm xa trong hồn tiếng của trời, tiếng của mùa xuân thì thầm
trong hoa lá: “Tôi bằng lòng… bằng lòng.”. Thì ra mùa xuân cũng khát yêu và
thèm sự “Cưỡng” như con người. Lâu lắm, xa lắm, trên
thế gian chưa có ai, chỉ có Đặng Xuân Xuyến “Cưỡng Xuân”.
Vì “Cưỡng Xuân” - Tập thơ đầu tay của Đặng Xuân Xuyến, tôi tự rót
rượu thưởng cho mình.
*
Hà Nội, ngày
08 tháng 06 năm 2017
NGUYỄN THANH LÂM
Địa chỉ: Số 4, ngõ 179 Minh Khai
quận Hai Bà
Trưng, tp Hà Nội
Email: thanhlam.tho@gmail.com
Điện thoại: 0984787426
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét