Những giấc mơ trong thơ thi sĩ chân quê
ANH VŨ
Nguyễn Bính trước 1945 công bố tất cả 7 tập thơ, chúng ta có
thể xét theo trình tự xuất hiện những bài thơ, câu thơ kể về các giấc mơ, lần
lượt xuất hiện qua các tập thơ của ông. Đó là các tập: Lỡ bước sang ngang
(1940), Tâm hồn tôi (1940), Hương, cố nhân (1941), Một nghìn cửa sổ và tập thơ
Bướm (1941), Mười hai bến nước (1942), Người con gái ở lầu hoa (1942) và Mây
Tần (1942). Cộng thêm một số bài thơ lẻ in rải rác trên các báo, tổng số các
thi phẩm viết trước Cách mạng của Nguyễn Bính là 272 bài (dựa theo Nguyễn Bính
toàn tập do Nguyễn Bính Hồng Cầu sưu tầm và biên soạn).
Trong tập thơ đầu Lỡ bước sang ngang, bài Thời trước có thể
xem là câu chuyện đầu tiên về giấc mơ trong thơ Nguyễn Bính. Đó là một giấc mơ
đẹp, mang kết thúc có hậu về một câu chuyện tình của thời xưa, vợ nuôi tằm dệt
vải trồng dâu chạy chợ, nuôi chồng ăn học, mong chồng thành tài, có ngày vinh
quy bái tổ. Không gian nghệ thuật của bài thơ mang đậm dấu ấn của nông thôn Bắc
Bộ thuở xưa, mở đầu và kết thúc đều bằng ánh trăng sáng trên vườn chè: Sáng
trăng sáng cả vườn chè/Một gian nhà nhỏ đi về có nhau/Vì tằm tôi phải chạy
dâu/Vì chồng tôi phải dầu hao bấc gầy (…) Chồng tôi cưỡi ngựa vinh quy/Hai bên
có lính hầu đi dẹp đàng/Tôi ra đứng tận gốc bàng/Chồng tôi xuống ngựa cả làng
ra xem/Đêm nay mới thật là đêm/Ai đem trăng sáng giãi lên vườn chè. Bài thơ kết
thúc bằng một hạnh phúc thật viên mãn, tròn đầy nhưng ta hiểu rằng, trên thực
tế khoa thi chữ Hán cuối cùng do triều Nguyễn tổ chức đã diễn ra vào năm 1915,
tức là trước khi Nguyễn Bính ra đời 3 năm. Bài thơ vì thế mãi mãi là một niềm
hoài vọng mênh mang…
Bài Truyện cổ tích trong tập Một nghìn cửa sổ lại là một
giấc mơ đẹp khác trong thơ Nguyễn Bính. Thi sĩ không chỉ nhận mình là hóa thân
của bướm mà cả người yêu của chàng cũng mang cốt bướm vậy. Trí tưởng tượng đặc
biệt của nhà thơ đã mang đến cho người đọc một câu chuyện vừa hư ảo vừa trần
thế: Em ạ ngày xưa vua nước Bướm/Kén nhân tài mở Điệp lang khoa/Vua không lấy
Trạng, vua thề thế/Con bướm vàng tuyền đậu Thám hoa/Vua liền gọi gả con gái
yêu/Nàng đẹp như em, chả nói điêu!/Vua nuông hai vợ chồng phò mã/Cho nhởn xem
hoa sớm lại chiều. Câu chuyện được tiếp tục khi vợ chồng đôi bướm lạc giữa vườn
hoa lê, được một bà tiên hiện ra giúp đỡ, đón về nhà cho ăn và ngủ. Và khi giấc
mộng bừng tỉnh cũng là lúc bài thơ kết thúc: Đêm ấy chăn êm và gối êm/Vợ chồng
ăn bánh với bà tiên/Ăn xong thoắt chốc liền thay lốt/Chồng hóa làm anh, vợ hóa
em. Nhưng bên cạnh những giấc mộng đẹp còn có những giấc mộng đầy chia lìa xa
xót. Đó là những mối tình dở dang thiếu vắng, là những khát khao không bao giờ
được trọn vẹn, mãi mãi day dứt trong cuộc đời thi sĩ. Câu chuyện với em Nhi
trong bài Hoa và rượu (tập Mười hai bến nước) chính là một trong những giấc
mộng tình điển hình nhất cho sự dở dang này.
Trong bài thơ, chỉ có những tháng ngày thơ bé là đẹp đẽ,
trong trẻo và có thực. Để rồi nỗi cách chia xảy đến, khiến thi sĩ chỉ còn mong
thấy người xưa trong mộng mà thôi: Ước gì trên bước đường lưu lạc/Một buổi
chiều nào lạnh gió mưa/Gõ cửa nhà ai xin ngủ trọ/Giật mình tôi thấy giọng Nhi
thưa/Ngồi bên lò rượu đêm hôm đó/Nhi rót đưa tôi nước rượu đầu/Nhắc lại thời
xưa mà thẹn lại/Ngậm ngùi hai đứa uống chung nhau. Và rồi cũng giống như Truyện
cổ tích, cho đến cuối bài thơ thì giấc mộng bừng tỉnh, trở về với thực tại bẽ
bàng: Nhưng mộng mà thôi, mộng mất thôi/Hoa thừa rượu ế ấy tình tôi/Xa rồi vườn
cũ hoa cam rụng/Gặp lại nhau chi muộn mất rồi/Chiều nay tôi chắp tay tôi
lại/Đừng gặp người xưa nữa, lạy giời! Những giấc mộng tình dang dở còn hiện ra
rải rác trong những câu thơ ở nhiều bài thơ khác: Đêm qua mơ thấy hai con
bướm/Khép cánh tình chung ở giữa trời (Hết bướm vàng), Đêm qua buồn quá tôi
say/Đã mơ một giấc mơ đầy mắt nhung (Mắt nhung). Bản thân người con gái trong
mối tình với thi sĩ cũng được ví như một giấc mơ mà chàng trai chẳng bao giờ
theo kịp, chẳng bao giờ giữ được: Vì em là một bài thơ/Vì em là một giấc mơ
khôn cùng (…) Tôi xin em chớ đợi chờ/Tôi còn theo đuổi giấc mơ khôn cùng (Vì
em).
Bên cạnh giấc mộng tình, còn có một cơn mơ khác, một giấc
mộng khác ám ảnh cuộc đời thi sĩ. Đó là nỗi lo cơm áo, là cái nghèo cứ mãi đeo
đẳng người làm thơ như một định mệnh: Nhất kiêng đừng lấy chồng thi sĩ/Nghèo
lắm con ơi, bạc lắm con (Oan nghiệt). Thế nên trong bài thơ Giấc mơ anh lái đò,
sự cách biệt quá xa về địa vị xã hội, về kẻ giàu người nghèo là một điều có
thật. Gia tài của anh lái đò chỉ có mỗi chiếc thuyền mà thôi, làm sao có thể so
với nguời đàn ông đến cưới được cô gái có những chín chiếc đò đón dâu, chín
nghìn cau, chín nghìn tiền cheo tiền cưới. Chàng trai những muốn bán đi gia tài
duy nhất của mình nhưng làm sao anh có thể làm nổi điều ấy: Lang thang tôi dạm
bán thuyền/Có người trả chín quan tiền lại thôi. Vậy là không chỉ ái tình mà
tiền bạc cùng đời sống giàu sang với thi sĩ cũng mãi là một giấc mơ xa vời. Nỗi
ám ảnh của đời sống cơm áo ấy không chỉ đi vào thơ Nguyễn Bính, nó còn là một
trạng thái chung của nhiều thi sĩ lãng mạn đương thời: Nỗi đời cơ cực đang giơ
vuốt/Cơm áo không đùa với khách thơ (Xuân Diệu), Trời hỡi làm sao cho khỏi
đói/Gió trăng có sẵn làm sao ăn (Hàn Mặc Tử), Suốt mấy năm giời kiết vẫn
kiết/Mà thương cho tôi thương cho anh/Đã rụng bao nhiêu mớ tóc xanh (Nguyễn
Vỹ), Đã có lần khói bếp không lên/Vợ ngược con xuôi túi hết tiền/Chồng gục cả
lòng trên giấy mực/Đen ngòm mặt đất tối như đêm (Trần Huyền Trân). Nhưng điều
khác biệt là tất cả những thi sĩ trên đều trực tả với bút pháp của hiện thực,
còn Nguyễn Bính thì đem cái nghèo đó vào trong giấc mơ.
Còn một bài thơ cuối cùng nữa mà tôi muốn kể ra đây như một
giấc mơ đặc biệt nhất trong thơ Nguyễn Bính, đó là bài Cô hái mơ. Thi phẩm vốn
mở ra bằng một không gian có thực của chùa Hương, với một người con gái hái mơ
trong rừng già. Nhưng càng đọc tiếp bài thơ, ta lại càng có cảm giác đây là một
không gian hư ảo, nhuốm màu tiên cảnh. Mối tình đẹp đẽ như khói sương chưa kịp
chớm nở đã vội tàn, giống như con đường của Từ Thức bị chặn lại, làm nên cách
ngăn mãi mãi giữa trần gian và thiên giới. Vì thế, chữ “mơ” trong bài thơ thực
sự là một lấp lửng đa thanh đa nghĩa, vừa là rừng mơ mà cũng vừa là cơn mộng:
Cô hái mơ ơi, cô gái ơi/Chẳng trả lời nhau lấy một lời/Cứ lặng rồi đi, rồi
khuất bóng/Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi…
Tóm lại, hai giấc mơ quan trọng trong cuộc đời thi sĩ Nguyễn
Bính là giấc mơ tình yêu và giấc mơ cơm áo. Soi chiếu vào cuộc đời thực của nhà
thơ, ta thấy Nguyễn Bính ít có những hạnh phúc lâu dài về đời sống hôn nhân và
gia đình. Ông có tới 4 đời vợ mà thời gian chung sống đều chẳng được bao lâu.
Người vợ đầu tiên là bà Nguyễn Hồng Châu (cưới năm 1951), người vợ thứ hai là
bà Mai Thị Mới (cưới năm 1952), người vợ thứ ba là bà Phạm Vân Thanh, hai người
chung sống với nhau trong thời gian Nguyễn Bính làm chủ bút báo Trăm hoa
(1956). Năm 1958, Nguyễn Bính trở về quê nhà Nam Định làm việc tại Ty văn hóa
Thông tin và ít năm sau cưới người vợ cuối cùng, bà Trần Thị Lai.
Theo hồi ký Cát bụi chân ai của Tô Hoài, đứa con với bà Vân
Thanh, Nguyễn Bính đã làm thất lạc ở ga Hàng Cỏ khi trao nó vào tay một người
lạ mặt. Về đời sống vật chất, chúng ta chắc rằng nhà thơ cũng có một đời sống
với nhiều khó khăn, nhất là trong những năm tháng cuối đời, nằm trong tình hình
chung của đất nước khi vẫn còn chưa thống nhất. Như vậy, những giấc mơ trong
thơ Nguyễn Bính đứng từ góc nhìn của phân tâm học Freud ít nhiều cho chúng ta
những đáp án tương đối sát thực với cuộc đời của nhà thơ. Và dù đời thực của
thi sĩ khá đa đoan nhưng những cống hiến của ông về mặt nghệ thuật lại có giá
trị lâu dài, đi vào lòng đông đảo nhiều tầng lớp nhân dân của nhiều thế hệ. Đọc
lại những vần thơ của Nguyễn Bính, người đọc hôm nay hiểu ông hơn và thêm phần
đồng cảm, sẻ chia với tiếng lòng của một thi sĩ tài danh.
Chép lại từ trang của Lê Thiếu Nhơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét