ĐÔI ĐIỀU VỀ THƠ LỤC BÁT *
Lê Hữu Bình- đã đăng trên Faceboook đầu 2018
Thơ lục bát
là thơ truyền thống của dân tộc Việt Nam ta. Có từ bao giờ và ở đâu là đầu tiên,
cũng khó mà biết được chính xác. Thơ lục bát được dùng nhiều nhất trong các
loại hình thơ hiện nay, trong ca dao hò vè đa phần cũng vận từ thơ lục bát.
Chính vì vậy chúng ta đã đang tôn vinh lên làm Quốc thơ... Tuy nhiên được tiếp
cận và theo dõi nhiều về thơ lục bát, vẫn thấy còn có một số (rất ít) trường
hợp sáng tác thơ lục bát chưa được đúng về vần điệu niêm luật thanh âm lắm. Trong
khi rất nhiều cây bút viết về thơ lục bát rất hay rất thâm sâu. Cũng xin mạo
muội nêu ra một vài nguyên tắc niêm luật vần điệu của thơ lục bát như sau:
I- THANH BẰNG,
TRẮC:
1. Các
từ nhất thiết phải thanh bằng (Những từ có dấu Hiền và không dấu), vần trắc (Những
từ có dấu Nặng- Sắc- Hỏi- Ngã). Để dễ hiều, dễ nhớ người ta đưa ra một định nghĩa
cho các từ ở hai câu lục bát như sau:
Bằng 2,6,8 trắc 4
Luật này phải đúng còn dư thì tùy.
Vậy là các từ thứ 2 thứ 6 và thứ 8 ở cả 2 câu lục bát
nhất thiết phải thanh bằng.
2. Từ thứ
4 ở cả 2 câu nhất định phải thanh trắc đó là nhịp 2/2 (2 từ xác định được một
ý). Đây là nhịp cơ bản và dùng nhiều nhất trong lục bát. Ví dụ:
Trăm năm/ trong cõi/ người ta
Chữ tài/ chữ mệnh/ khéo là/ ghét nhau. (Kiều)
Trường
hợp tiểu đối hay nhịp 3/3 (3 từ mới điễn đạt được một ý) thì chữ thứ 2 người ta
vẫn dùng vần trắc mang tính điểm nhấn được, nhưng rất ít. Như: Người nách thước/
kẻ tay đao... Hoặc: Có cỗ thụ/ có sen hồ (Kiều).
Hoặc nhịp 3/5
ở câu bát thì cũng được:
Rồi
mai giã bạn anh về
Nghe kẹt cửa/
lại nhớ tre rừng Lào (Phạm Tiến Duật).
Còn có
những nhịp khác nữa như 1/3/4: Vầng dương ngà ngọc người ta/ Đây/ vành trăng
vẹt/ mờ xa cuối trời (truyện thơ Thúy Lan). Hoặc nhịp 4/4...v.v.. cũng đều phải tuân thủ luật về các thanh bằng,
trắc...
II- GIEO VẦN
Đương nhiên
vần của từ thứ 6 câu lục phải vần với từ thứ 6 của câu bát và từ thứ 8 của câu
bát phải vần với từ thứ 6 câu lục, cứ thế liên tục nối đuôi nhau kéo dài cho đến
hết bài, hết tác phẩm lục bát mới thôi.
1. Vần
chính
Tức nguyên phụ
âm của từ thứ 6 câu lục, trùng với nguyên phụ âm từ thứ 6 câu bát:
Bầm
ơi có rét không bầm
Heo heo gió núi
lâm thâm mưa phùn. (Bầm ơi)
Chúng ta
thấy từ bầm và thâm phần nguyên phụ âm của 2 từ này đều là âm (â là nguyên âm,
m là phụ âm). Tóm lại vần chính thì ai cũng nhận ra, khỏi bàn.
2. Vần
thông.
Trong
trường hợp người ta không tìm được từ vần chính để ghép vần cho câu trên thì
buộc người ta phải tìm tới vần thông. Hoặc có vần chính nhưng từ đó không đủ hay,
mà vần thông hay hơn, ý nghĩa sâu sắc hơn thì người ta sẽ lấy vần thông để gieo
vần, không phải một câu mà nhiều câu liền. Những chữ cuối của vần thông thường
là các nguyên âm: A,O,Ơ,U,Ư,I,E... Ví dụ: Vực nàng lên ngựa tức thì/ Phòng đào
viện sách bốn bề lửa dong. (Kiều) rõ ràng 2 từ: Thì- Bề có các chữ cuối nguyên
âm là I,E. Một khi 2 chữ cuối đã là vần thông thì phụ âm nối theo phía sau
giống nhau cũng là tương thích vần thông. Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ
như nước trong nguồn chảy ra (ca dao) 2 từ vần thông ơn- uồn. Rút ra: IM- EM là
thông còn IM- EN là không được vì phụ âm N khác phụ âm M. Hoặc: Cỏ non xanh tận
chân trời/ Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. (Kiều). Rõ ràng từ TRỜI, VÀI có
phần nguyên âm kèm phía sau là ơi- ai hoàn toàn đúng luật thông. Hai câu tả muà
xuân của cụ Nguyễn rất hay nhưng đó lại là vần thông. Nói về vần thông khi gieo
vần cho thơ lục bát thì Nguyễn Du là người sử dụng khá nhiều. Không phải cụ bí
không tìm được từ vần chính mà thực thi ý đồ hẳn hoi, vì vần thông chứa cái hay
riêng của nó. Đọc lần đầu nghe thấy tức tai một chút, nhưng đọc lại đôi ba lần
thấy hay mà ấn tượng nhớ lâu. Mười mấy câu vần thông liền một lúc của cụ Nguyễn:
720: Tơ vương còn vướng mối này chưa xong
Hở môi
ra cũng thẹn thùng
Để lòng từ phụ tấm lòng với ai
Cậy
em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Giữa
đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ
khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu
sóng gió bất kỳ
730. Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Ngày
xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non.. (Kiều)
Nguyễn Du
còn nhiều chỗ sử dụng liên tục 4-5 câu vần thông, như:
Vội chi
liễu ép hoa nài
Còn thân ắt sẽ đền bồi có khi
Thấy lời
đoan chính dễ nghe
Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân...
Đoạn tả
Kim Trọng cứ muốn “ấy” trước Thúy Kiều nhưng nàng không cho. Hoặc câu vần thông
rõ hay: Người lên ngựa kẻ chia bào/ Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san...
Người về chiếc bóng năm canh/ Người đi muôn dặm một mình xa xôi (Kiều), các bạn
để ý từ bào và màu, từ canh- mình vần thông rõ tinh tế. Mấy câu về vần thông
rất đặc trưng trong Kiều khi tả sắc đẹp của Thúy Vân: Vân xem trang trọng khác
vời/ Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang. Hoa cười ngọc thốt đoan trang/ Mây
thua nước tóc tuyết nhường màu da. Từ vời- ngài, trang- nhường
khi chiết tự phía sau của mấy từ ấy ra ở 2 câu sau, ta có ang và ường
(thấy rõ nguyên âm a phụ âm ng và nguyên âm ươ, phụ âm ng đủ tố chất cấu
thành vần thông trong luật vần thông của thơ lục bát). Qua đây chứng tỏ sử dụng
vần thông nhiều hợp lý chứng minh khả năng kỳ tài của người thơ chứ không phải
vì bí không tìm được vần chính phải lấy vần thông thế chỗ ép vần... Có thể kết
đoạn này này như sau: Một khi phía cuối của một từ đã là nguyên âm, các nối
tiếp sau dù mấy phụ âm chăng nữa mà giống nhau thì 2 từ đó cũng sẽ mặc định vần
thông... Cũng không ai định rõ là trong một tác phẩm lục bát thì bao nhiêu câu vần
thông là hợp lý? Theo tôi là tùy theo bài nhưng những tác phẩm có dung lượng
lớn dài về số lượng câu, thì có thể vần thông chiếm quãng trên dưới 20%. Theo
các nguyên tắc trên, tôi đã giành công thống kê ra truyện Kiều có 671 câu vần
thông trong tổng số của Kiều là 3254 câu. Nhân đây có người cũng từng thống kê
trong truyện Kiều sử dụng tới 131 từ Hoa, 100 từ Xuân và 60 từ Nỗi
một con số lý thú. Vần thông có chiều sâu hay, len lõi vào tâm tưởng người đọc
một cách tự nhiên mới kỳ... Sở dĩ cứ lấy truyện Kiều ra làm dẫn chứng minh họa
là dễ thuyết phục bạn đọc nhất. Giờ đây rất nhiều các bác các anh chị các em và
các cháu làm thơ lục bát quá hay.
Luc
bát phải tuân thủ theo luật bằng trắc nhưng cách chọn từ gieo vần sao cho các
chữ liên kết liên âm mềm mại giai điệu mượt mà có thần có hồn có nhạc là rất
nên, thường dễ ở nhịp 2/ 2 còn ở vài nhịp khác tạo điểm nhấn là chính, nhưng
rất ít. Từ là những từ ngữ đang sử dụng của thời đại mình đang sống, chọn lựa
đưa vào thơ thì mới sống động thiết thực đảm bảo giá trị lâu dài. Câu từ, có
chỗ là bác học nhưng cũng khi rất dân dã để tạo nên tính đa hoạt của bài thơ,
khi trữ tình sâu lắng lúc bộc trực phủ phàng tất cả nhằm vun đắp cảm xúc mê hồn
cho đọc giả. Ví như: Vầng trăng ai sẻ làm đôi/ Nửa in gối chiếc nửa soi dằm
đường. (Kiều- rất bác học) Và: Vội vàng xuống ngựa ra uy/ Đứa thì vả miệng đứa
thì bẻ răng (Kiều- rất dân dã)... Tuy
nhiên cá biệt có người hiện nay chưa hiểu vần thông, lại cho rằng những câu lục
bát như vậy là phạm luật là sai là ép vần, thật khí không phải. Cứ nguyên tắc
cứng phải vần chính thì chúng ta làm sao có nổi những tác phẩm thơ lục bát dài bất
hủ, vĩ đại?
3. Vần
trùng:
Tức là từ
thứ 6 của câu lục trùng với từ thứ 6 của câu bát: Hoặc chữ cuối câu bát trùng
với chữ cuối câu lục. Đàn bầu ai gảy nấy nghe/ Làm thân con gái chớ nghe
đàn bầu. (ca dao). Hoặc: Người đâu trong ngọc trắng ngà/ Mặt vành vạnh
nguyệt, tóc ngà ngà mây. (Nhị Độ Mai). Hoặc: Duyên kia có phụ chi tình/
Mà toan sẻ gánh chung tình làm hai (Kiều). Trùng cả chữ của câu bát và câu lục:
Ấy hồn thục đế hay mình đỗ quyên/ Trong sao châu nhỏ duềnh quyên. (Kiều). Vần
trùng rất ít dùng có thể nó chỉ chừng 0,1% trong tác phẩm thôi.
* Nên tránh
Khi
gieo vần thơ lục bát chúng ta nên tránh các từ thứ 6, thứ 8 ở câu bát cùng vần
với nhau vì nghe không suôn sẻ, bí, không thoáng mở cho các câu, đoạn nối tiếp
sau. Hiện tượng này gọi là Phong yêu. Với những tác phẩm lục bát lớn dài đồ sộ
có thể không tránh khỏi, nhưng các bài thơ ngắn chúng ta nên triệt để tránh,
tuy không phạm luật nhưng không hay.
** Một vài bài lục bát, bẻ gãy từng đoạn
ở các câu (thể hiện điểm nhấn, cái mới..), tôi nghĩ không hay lắm. Đã là lục
bát thì câu trên phải 6 dưới phải 8, bẻ thành từng khúc đâu còn là thơ lục bát?
Nên coi đó là dạng thơ tự do thì hợp hơn.
Bàn về
thơ lục bát thì dài, lớn lắm, không thể một bài ngắn mà nói hết được. Cũng do
nghiên cứu lâu năm, biết một chút nho nhỏ về thơ lục bát, lại thấy một số thi
sỹ hay gặp phải vài trục trặc này, nên mạo muội đưa ra mấy tiêu chí góp vui
chia sẻ cùng bạn đọc.
Chúc
mọi người sáng tác về thơ lục bát thật hay
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét