Chiếc đồng hồ cho Anna
Truyện
ngắn, Giải Nhất - Cuộc thi truyện ngắn Báo Quê
Việt - 2019
Tác giả: Lý Thanh
Quê Việt - Trong buổi Lễ KN 20 năm thành lập báo Quê Việt và Lễ trao giải cuộc thi Truyện ngắn báo QV - 2019 tổ chức vào ngày 26-05-2019 vừa qua, vì điều kiện ở xa, tác giả Lý Thanh - người đoạt giải Nhất cuộc thi không tham dự được buổi Lễ nên có nhờ bạn là anh Đỗ Thăng Long thay mặt đến dự.
QV xin trân trọng giới thiệu thư gửi cho BBT báo QV và truyện ngắn "Chiếc đồng hồ cho Anna" của tác giả Lý Thanh.
Kính thưa Ban Biên tập báo Quê Việt.
Tác giả: Lý Thanh
Quê Việt - Trong buổi Lễ KN 20 năm thành lập báo Quê Việt và Lễ trao giải cuộc thi Truyện ngắn báo QV - 2019 tổ chức vào ngày 26-05-2019 vừa qua, vì điều kiện ở xa, tác giả Lý Thanh - người đoạt giải Nhất cuộc thi không tham dự được buổi Lễ nên có nhờ bạn là anh Đỗ Thăng Long thay mặt đến dự.
QV xin trân trọng giới thiệu thư gửi cho BBT báo QV và truyện ngắn "Chiếc đồng hồ cho Anna" của tác giả Lý Thanh.
Kính thưa Ban Biên tập báo Quê Việt.
Qua
lời anh Đỗ Thăng Long thay mặt tôi dự buổi lễ kỷ
niệm và công bố kết quả cuộc thi văn học hôm nay, tôi
xin chân thành cảm ơn tấm thịnh tình của các anh các
chị.
Dù đã không còn sống và làm việc ở Ba Lan một thời gian dài, tôi vẫn theo dõi tình hình CH Ba Lan, các câu chuyện của cộng đồng VN tại đây và một số hoạt động của báo chí tiếng Việt gồm có tờ Quê Việt.
Những hoạt động này đang góp phần nâng cao hơn nữa uy tín và vị thế của người VN trong con mắt người Ba Lan và châu Âu. Sự trưởng thành về tri thức của một cộng đồng nhập cư còn được đánh giá không chỉ bằng thu nhập, việc làm của họ, mà còn bằng các giá trị văn hoá, gồm cả âm nhạc, nghệ thuật, thơ văn, họ cùng tạo ra. Vì thế, theo thiển ý của tôi, các cuộc thi văn học, ca nhạc, biểu diễn võ thuật, triển lãm tranh của người Việt Nam ta tại Ba Lan đều có ý nghĩa rất lớn và dù ở xa tôi vẫn rất vui được tham gia, nhờ liên kết qua thế giới mạng.
Chúc Ban Biên tập và từng anh chị các bạn dự buổi hôm nay nhiều sức khoẻ, nhiều ý tưởng để tiếp tục đóng góp cho người Việt Nam tại Ba Lan và nước chủ nhà những phần công việc hữu ích chung của mình.
Dù đã không còn sống và làm việc ở Ba Lan một thời gian dài, tôi vẫn theo dõi tình hình CH Ba Lan, các câu chuyện của cộng đồng VN tại đây và một số hoạt động của báo chí tiếng Việt gồm có tờ Quê Việt.
Những hoạt động này đang góp phần nâng cao hơn nữa uy tín và vị thế của người VN trong con mắt người Ba Lan và châu Âu. Sự trưởng thành về tri thức của một cộng đồng nhập cư còn được đánh giá không chỉ bằng thu nhập, việc làm của họ, mà còn bằng các giá trị văn hoá, gồm cả âm nhạc, nghệ thuật, thơ văn, họ cùng tạo ra. Vì thế, theo thiển ý của tôi, các cuộc thi văn học, ca nhạc, biểu diễn võ thuật, triển lãm tranh của người Việt Nam ta tại Ba Lan đều có ý nghĩa rất lớn và dù ở xa tôi vẫn rất vui được tham gia, nhờ liên kết qua thế giới mạng.
Chúc Ban Biên tập và từng anh chị các bạn dự buổi hôm nay nhiều sức khoẻ, nhiều ý tưởng để tiếp tục đóng góp cho người Việt Nam tại Ba Lan và nước chủ nhà những phần công việc hữu ích chung của mình.
Lý
Thanh
Chiếc
đồng hồ cho Anna
Elephant
and Castle là khu phố nghèo của London,
nằm giữa hai trục
lộ từ cầu Westminster Bridge và London Bridge chạy sang
bờ Nam sông Thames, gặp nhau ở bùng binh bên cạnh
thương xá có tượng con voi cõng trên lưng một lâu
đài. Hai cha con hắn mất gần hai giờ mới từ phi
trường Heathrow về được bùng binh đó, và còn
phải đi thêm 10 phút taxi tới địa chỉ thuê nhà. Nhà
trọ Bed & Breakfast
kiểu Anh ra nằm trên gác một quán pub luôn ồn ào.
Nhận phòng xong, hai người đi ra phố mua đồ ăn.
Đầu thu nên gần 9 giờ tối mà trời vẫn sáng.
Bên phố chính thấy có quán Ấn Độ, kebab Thổ,
tiệm McDonald's đều không hấp dẫn, hai cha con vào
quán Tàu 'The Jade Garden' mua mì xào và thịt quay mang
về ăn. Đang bước trên vỉa hè, Hương Lan, con gái
hắn, kéo tay bố: “Bố xem,
có cửa hàng Ba Lan này.”
Tấm
bảng ‘Polish
Delicatessen' có
kèm dòng chữ Ba Lan 'Polski
sklep spozywczy –
Mała
Brzoza
(Bạch dương Nhỏ). Thấy đã đóng cửa, hắn bảo
con gái để mai quay lại xem có gì hay. Ở Việt Nam,
hắn vẫn làm phiên dịch cho các đoàn Ba Lan và còn
mời họ về nhà thết đãi. Quà Ba Lan bạn bè đem
về như xúc xích, vodka hiệu bò rừng Zubrowka có
cọng cỏ xanh trong chai, sách báo cũng luôn có ở
nhà. Ba Lan luôn là một phần của câu chuyện gia
đình hắn và có lúc hai vợ chồng tính cho con sang
Ba Lan học - nhiều trường nay dạy bằng tiếng Anh
đạt tiêu chuẩn EU, giá lại rẻ - nhưng ngành thiết
kế công nghiệp Hương Lan chọn lại rất tốt ở
Anh, dù học phí cao nhất châu Âu.
Mấy
ngày sau hắn phải đưa con nhập học ở Bắc London
nên không thăm lại khu phố. Phải ba hôm sau, Hương Lan
hẹn bạn mới quen lên Regent’s Park chụp ảnh nên hắn
rảnh. Buổi chiều đi chơi ở trung tâm xong, hắn bước
qua cầu Tower Bridge, và thấy GoogleMap chỉ nơi ở trọ
cách không còn xa, nên quyết định đi bộ tiếp.
Con
đường dẫn hắn trở lại cửa hàng thực phẩm
Ba Lan hôm trước. Vừa đẩy cửa bước vào là một
thế giới kỷ niệm ùa đến bằng mùi vị, màu
sắc: quầy kính bán xúc xích, thịt nguội, các
món bánh như sernik (bánh bột trộn pho-mai), paczki
(bánh rán tẩm mật), các món bánh gối pierogi,
bánh cuốn nhân thịt krokiety...ngon mắt không thể tả.
Trên tủ có nước quả Gấu Puchatek, bia lon, bia chai
Zywiec, Tyskie, EB...Cạnh đó là giá hàng đồ khô, dưa
chuột muối, nấm ngâm dấm, vô số loại sữa chua,
kefir quen thuộc, rồi bánh mì, pho-mai trắng (twaróg),
phô-mai vàng, và cả kẹo ‘con bò sữa’ (krówki)
hệt như thời hắn còn ở Ba Lan.
Trong
tiệm khách hàng nói chuyện râm ran bằng tiếng Ba
Lan như thể họ đang ở Warszawa chứ không phải giữa
London. Không ai để ý đến hắn, có lẽ vì dân Ba
Lan ở đây đã quen rằng London có đủ sắc dân, đủ
loại màu da, màu tóc, chứ ở Ba Lan thì người châu
Á vào cửa hàng đôi khi vẫn nhận được những
cái nhìn tò mò. Vui thích thấy một giá để đầy
báo và tạp chí Ba Lan và đang nhấc một cuốn lên
xem hắn nghe cô bán hàng gọi bạn lấy thêm ra bánh
sernik cho khách. Từ phía sau quầy, một phụ nữ nói
to: “Już
idę”
(Đang đi ra đây) và bước ra, hai tay bê khay bánh. Hắn
giật mình nhận ra khuôn mặt và mái tóc vàng dài
quá vai. Một luồng điện chạy vụt qua đầu làm
hắn buông luôn tờ tạp chí xuống, đi hẳn vào
phía trong cửa hàng để không ai thấy. Đứng giữa
hai dãy hàng đồ khô, mắt dán vào các gói mì,
bột, bánh sấy, tim hắn đập thình thịch, mồ hôi
đổ ra.
Anna,
đúng là nàng nhưng trời đất đưa đẩy thế nào
mà lại có mặt ở đây. Sau vài phút, trấn tĩnh
lại, hắn lẳng lặng đi ra cửa để không ai chú ý
rồi về quán The King's Head gọi một vại Guinness, tự
mang ra bàn ngoài vườn. Khi ngồi xuống, tay hắn vẫn
hơi run nhưng vị bia đen Irish vừa đắng vừa béo
ngậy lại mát lạnh mau chóng làm đầu hắn dịu đi.
Uống hết nửa vại bia, hắn lấy iPhone ra coi và
bấm địa chỉ của cửa hàng Bạch dương Nhỏ vào
Google.
Trang
web có ảnh tiệm thực phẩm với lời chào bằng
hai thứ tiếng, ‘Mời bạn
đến với cửa hàng nhà Brzozowski'. Thôi
thế cũng ổn. Chắc vợ chồng nàng nay chuyển sang
Anh làm ăn từ hồi Ba Lan vào EU năm 2004. Hơi nuối
tiếc nhưng hắn yên tâm là có thể quay lại hỏi
thăm rồi chia tay nhau mà không phải hâm nóng tình xưa.
Loay hoay bấm trang web hắn đọc thấy phần 'Liên hệ
mua bán’: ‘Hãy gọi điện
vào số +44(0207)...và gửi email cho Adam và Renata
Brzozowscy'. Vậy không phải là
Anna hay sao? Nàng làm gì ở đó? Người hắn nóng
lên hệt như lần đầu tiên hôn nàng ở bãi biển
Kolobrzeg.
***
Mùa
hè năm thứ ba đại học ở Warszawa hắn được
Andrzej, bạn cùng khoa, rủ về nhà chơi ở vùng biển
Baltic. Gryfice có cả sông, cả rừng bên bờ biển
khiến ba tuần đi chơi làm hắn mê luôn cảnh đẹp
vùng này và còn học được bao điều về dải đất
Ba Lan từ Gdansk chạy tới Szczecin mà trước 1945 thuộc
về Đức. Những ngày cuối Thế Chiến 2, xe tăng
Liên Xô đã tràn qua đây trên đường ‘công phá’
Berlin. Khắp vùng duyên hải vẫn còn nhiều di tích
như pháo đài Wolin, nhà thờ kiểu Gothic ở Kamien
Pomorski và các lô-cốt, nơi những toán SS cuối cùng
cố thủ năm 1945 để rồi bị pháo Nga dập chết.
Hôm trở về Warszawa, hắn quyết định xuống tàu
xem ngọn hải đăng Kolobrzeg nổi tiếng xây từ thế
kỷ 17.
Xuống
ga hắn tìm đường ra bờ biển nhưng bị lạc. Một
cô gái đang đứng bên lối vui vẻ chỉ đường: 'Cứ
đi tiếp hai ba phố nữa là đến'.
Dứt lời cô cùng bạn đi sang ngả khác.
Ngọn
hải đăng cao hơn 30 mét quả là một công trình đáng
nể. Ngoài phần tháp và ngọn đèn trên đỉnh từng
chỉ đường cho tàu thuyền từ Đan Mạch lên St
Petersburg, đây còn là một pháo đài lớn, bảo vệ
vùng bờ biển...của Đức ngày xưa. Còn từ khi
thuộc về Ba Lan, thành phố cho xây thêm tượng
‘Zaślubin
Polski z morzem’ (Ba
Lan kết hôn với Biển Baltic),
đánh dấu chiến tích Ba Lan phải đổ máu nhiều
đời để giành lối ra biển.
Hắn
xắn quần lội nước một lúc rồi lên bậc thang
dưới chân đèn biển ngồi nghỉ. Đang xem cuốn sách
du lịch thì có tiếng người hỏi “Cuối
cùng thì bạn cũng ra đến đây?”.
Ô kìa, cô gái lúc nãy nay chỉ có một mình, chiếc
túi màu đỏ không đeo ở vai mà cầm ở tay, khuôn
mặt tròn xinh xắn, mắt mở to dò hỏi như muốn
làm quen.
Cô
chìa tay: “Tôi là Ania. Còn anh
có phải người Trung Quốc?”
“Không,
tôi là người Việt Nam. Chắc bạn chưa bao giờ gặp
người Việt Nam?”
Cô
gái đỏ hồng hai má: “Cho
đến sáng nay thì chưa bao giờ.”
À,
cô bé này tính hóm hỉnh, biết đùa rất dễ mến.
Hắn tự giới thiệu tên rồi rủ cô đi dạo.
Hai
đứa đi trên bãi cát rồi vào trong phố, xem Tòa
thị chính do Karl Friedrich Schinkel xây giữa thế kỷ 19,
ngắm Nhà thờ Nữ thánh Maria bằng gạch đỏ, rồi
lại trở ra bãi biển. Năm nay 19 tuổi, sống ở thị
trấn Budzistowo, ngoại ô Kolobrzeg, Anna học nghề y tá
và có hobby là vẽ bằng phấn và bút chì. Gần
hai giờ chiều, hắn chia tay cô gái để lên tàu về
Warszawa và hôm sau gửi cho cô một bưu ảnh chụp Công
viên Lazienki có tượng Chopin bên đàn piano. Bức thư
đáp lời từ Anna có kèm bức tranh bút chì vẽ
ngọn đèn biển. Bên cạnh dòng chữ Ba Lan, 'Latarnia
Morska Kolobrzeg' cô viết cả
tiếng Đức 'Leuchtturm im Hafen
von Kolberg' và Anh 'Lighthouse
in the Harbour of Kolobrzeg'. Giữa
ba dòng chữ cách điệu, cô gái vẽ một trái tim
nhỏ nằm nép bên ngọn sóng.
Hình
trái tim làm hắn bồi hồi và khó nghĩ. Hắn vẫn
đang có bạn gái Kasia, người mới đi thăm thân ở
Canada, nơi anh cô bỏ sang tỵ nạn hồi Ba Lan ra Thiết
quân luật năm 1981. Từ Toronto, Kasia vẫn viết thư
đều nên hắn quyết định chỉ giữ quan hệ với
Anna qua cách gửi bưu ảnh mà không thổ lộ gì.
Kiếm được tiền là hắn đi chơi nên bưu ảnh từ
Berlin, Bratislava, Budapest và có lần là từ Moskva lần
lượt bay về vùng biển Ba Lan. Thư và tranh của Anna
thì ngày càng lãng mạn hơn, có khi là những nhành
hoa bên lối vào một nhà thờ đá, hoa trùm lên nét
thánh giá mảnh mai ở phía xa, có khi là hình con
chim đứng một chân dưới bóng của con thuyền bên
bãi. Có lần cô vẽ đụn cát cận cảnh, ngoài khơi
xa chỉ một cánh buồm trắng. Nét chì đen điểm
phấn màu luôn tạo ra khung cảnh thật thân ái, mời
gọi nhưng thoáng xa vời, tưởng như chỉ là màu hy
vọng.
Nằm
trong căn phòng nhỏ ở nhà sinh viên, hắn vắt tay lên
trán suy nghĩ. Hắn đã có nhiều bạn gái Ba Lan, và
thấy họ đều muốn tưởng tượng ra hình ảnh hơi
quá lãng mạn về hắn, một anh chàng cao gầy, tóc
đen đến từ châu Á 'exotic'. Tuổi trẻ tràn trề
nên lao vào các mối quan hệ đó mà không suy nghĩ
nhiều. Có lúc làm tình xong, hắn nằm gối đầu
lên bộ ngực trắng muốt của Kasia, cô lùa tay vào
tóc hắn và bảo: “Tóc đen và nhọn thế.” Hắn
khoan khoái tự hào vì chẳng cần tóc nâu, mũi cao
và mình đầy lông lá như mấy thằng bạn Ba Lan mà
vẫn chiếm được cô gái xinh vào loại nhất lớp.
Nhưng
hắn cũng nhận ra khá rõ là trong chuyện tán gái,
sức hấp dẫn”của lạ” đến từ hình thể và
giọng nói tiếng Ba Lan khá chuẩn của hắn cũng có
điểm dừng. Nước Ba Lan thuần chủng bị đóng cửa
hàng chục năm nên số phụ nữ dám yêu hay lấy
chồng gốc từ các nước Thế giới thứ ba rất
hiếm. Và vì con số đó quá nhỏ nên khó biết họ
lấy vì tình yêu thật, rất thật và rất mãnh
liệt, hay chỉ muốn chạy trốn khỏi hiện thực chỉ
một màu trắng buồn tẻ trong những ngày tuyết tan
lầy lội.
***
Phải
thêm một mùa hè nữa hắn mới cảm thấy tình yêu
với Anna như trái cây đến độ chín. Cũng gần
nửa năm hắn chỉ...yêu qua thư vì Kasia đã có visa
ở lại Canada và thư từ giãn dần. Nhưng điều gì
đến thì cũng phải đến. Hắn viết cho Kasia một
lá thư chia tay và mua vé tàu quay lại vùng biển.
Anna
thuê nhà trên tầng hai một ‘kamienica’ kiểu Đức
cũ dành cho nhiều hộ gia đình. Căn gác nhỏ đấy
là thiên đường của tình yêu cho hắn và nàng trong
hai mùa hè liền. Nay đã đi làm trong bệnh viện
thành phố, có ngày nàng để hắn ở nhà một
mình. Những chiều vắng nàng, hắn ra ban-công ngồi
ngắm cây dẻ gai thả hoa trắng muốt vào mùa thi mà
Ba Lan gọi là ‘mùa hoa kasztany’. Xa hơn là khoảnh
rừng với ngọn bạch dương cao vút, gió biển thổi
lay động cả ngày lẫn đêm.
Cha
Anna là người Ba Lan nhưng mẹ nàng họ Walfdorf là dân
Đức mà nửa gia đình bị trục xuất hết khỏi Ba
Lan năm 1946. Trước Thế Chiến, họ ở Bydgoszcz
(Bumberg) và trong họ mẹ Anna có hai người cầm súng
trong Wehrmacht. Với người Ba Lan thì kiều dân Đức,
Volksdeutsche, sống ở vùng Tây Ba Lan đã chừng 700
năm, là bọn phản bội đáng giết. Nhưng thực ra
không người ít bị cưỡng bức phải vào quân đội
Đức, đã gây tội ác và đã bị trừng phạt.
Chuyện như thế ở Ba Lan có nhiều mà ít ai muốn
nhắc. Một nhà văn Ba Lan từng nói rằng lịch sử
quá nhiều sự kiện đau lòng nên biết chọn gì để
quên đi là cả một nghệ thuật. Vì không phải là
người Ba Lan nên hắn được nghe Anna kể hết về
gia đình giữa những giờ đi dạo bờ biển, đi xem
phim, ăn kem. Một chiều nàng bắt hắn làm người
mẫu ngồi trên nền nhà đọc sách bên cạnh giỏ anh
đào để vẽ chân dung. Nhưng Anna không cho hắn xem
tranh mà bảo để khi nào vẽ thật đẹp rồi sẽ
tặng hắn.
Ngày
đó đã không xảy ra. Vào năm cuối đại học, bố
mẹ ở nhà nói đã xin việc cho hắn ở một viện
nghiên cứu trung ương. Đường công danh rộng mở,
hắn lại là con một, không về không được, khiến
tấm vé về như chiếc chìa khóa mở ra một tương
lai tươi sáng.
Một
buổi chiều mùa đông hắn đã lại đi tàu lên
Kolobrzeg rồi đến căn gác tình yêu. Nàng không có
nhà nhưng như nhiều lần khác, hắn đã có chìa
khóa nên cứ mở cửa vào. Lục tủ lạnh thấy không
có gì ngoài mấy lọ sữa chua, hắn lộn ra phố,
đi trong trời mưa tuyết trắng xóa đường phố mua
đủ mấy thứ về nấu món mì thịt và rau trộn.
Hắn mở chai bia ngồi ăn cơm một mình rồi đi ngủ.
Gần sáng nàng từ ca trực đêm về, bước vào
phòng, rũ tuyết khỏi giày rồi vứt áo quần chui
vào chăn tìm hắn. Hắn không cần mở mắt ra mà
cứ ôm lấy tấm thân còn hơi lạnh của tuyết, hôn
nàng thật sâu và hai đứa quấn vào nhau dưới tấm
koldra nhanh chóng nóng rực.
Sáng
hôm sau, hắn dậy sớm để ra tàu và vô ý vung tay
làm chiếc đồng hồ báo thức văng xuống nền
nhà vỡ tung ra. Nàng chỉ mở mắt nhìn, nói “Không
sao đâu” rồi ngủ tiếp. Hắn
thấy lòng nặng trĩu vì hèn nhát, không dám nói
lời chia tay mà chỉ lẳng lặng để chiếc chìa
khóa nhà lên mặt bàn rồi bước đi. Lúc lên tàu
hắn tự nhủ ‘Mình phải gửi
về cho nàng một chiếc đồng hồ’.
***
Hôm
đó ở London, hắn trở lại cửa hàng đứng rất
lâu, chờ vắng khách mới vào. Anna đứng ở quầy
tính tiền chăm chút viết gì đó. Hắn nhặt tờ
báo Angora đặt lên mặt quầy. Nàng ngửng lên, giật
mình, cặp mắt màu hạt dẻ mở to, má đỏ ửng
lên nhìn hắn nửa tin nửa ngờ.
“Chào
Anna!”
“Chào
anh...”
Thời
gian như dừng lại.
“Anh
chỉ mua có tờ báo?”
“Anh
còn muốn nói chuyện.”
Gặp
lại nhau, Anna kể những ngày đầu sang Anh thật gian
truân. Mấy năm đầu vì tiếng Anh còn kém nên việc
làm chỉ là dọn phòng khách sạn, phụ bếp, phụ
bán hàng. Sau hai năm với nhiều giờ học tiếng Anh
buổi tối ở một college cộng đồng, Anna mới
nhận được việc trong mạng mỹ phẩm và dược
phẩm Boots. Kiến thức hồi làm y tá ở Ba Lan giúp
nàng lên chức phụ trách sale của quầy dược. Đồng
lương không cao nhưng Anna đã học được cách vận
hành của một doanh nghiệp và tính chuyện ra làm
riêng. Góp vốn cùng cậu em họ và vợ cậu ta,
nàng mở tiệm thực phẩm Đông Âu. Sau Ba Lan, Hungary,
Czech và Slovakia, đến lượt Romania, Bulgaria, Lithuania,
Latvia và Estonia cũng vào EU và hàng trăm nghìn công
dân của họ kéo sang Anh, cộng với cả triệu người
Ba Lan đã ở Anh, tạo ra một thị trường thực phẩm
ra tiền. Anna có cổ phần trên 50% nên trông quầy ba
ngày và lo sổ sách, giao tiếp với kế toán, luật
sư. Hai bạn trẻ lo cả bốn ngày còn lại.
Sau
khi hắn rời Ba Lan nàng có bạn trai và hai người
sống với nhau vài năm không làm đám cưới. Nhưng
vì mất việc anh chàng xoay ra rượu chè, rồi bỏ
sang Thuỵ Điển, khiến Anna cũng bỏ Ba Lan sang Anh tìm
vận may mới. Tối hôm trước ngày hắn ra sân bay,
nàng mời hắn lại nhà ăn món bánh pierogi tự làm.
Dòng cảm xúc thời sinh viên trở lại cùng kỷ niệm
yêu dấu làm lòng hắn se lại trước cô gái tóc
vàng mà nay đã là người phụ nữ sắp vào tuổi
trung niên. Hắn thấy bâng khuâng, hối lỗi. Nàng thổ
lộ muốn về Ba Lan mua một khu nhà nghỉ cho thuê lấy
chỗ đi về, và không phải cắm mặt vào quầy
thực phẩm 365 ngày một năm ở London, hắn bám ngay
lấy ý tưởng đó cũng muốn thoát khỏi cuộc
sống vô vị ở Việt Nam. Lúc chào ra về, hắn hôn
nhẹ vào má, rồi vào mái tóc của nàng, rồi ôm
nàng chặt hơn một cái hôn xã giao bình thường.
“Anh
không hạnh phúc khi ở Hà Nội và muốn quay lại
đây, quay lại Ba Lan, nên cứ đợi rồi chúng ta làm
gì đó chung.”
Hắn
không thể hứa nhiều hơn nhưng muốn Anna đừng bỏ
hắn như hắn từng bỏ nàng hồi sinh viên. Cặp mắt
người phụ nữ sáng bừng lên rồi nhắm lại. Nàng
gục đầu vào vai hắn khóc không thành tiếng. Dòng
nước mắt tủi thân của một tình yêu năm xưa tưởng
đã chết đi cùng năm tháng cứ thấm vào áo hắn
nóng rực. Hắn nâng đôi má nàng lên, hôn vào cặp
môi vẫn run vì khóc, hứa sẽ quay lại.
***
Chuyến
thăm lại Ba Lan thành công hơn hắn tưởng. Vì sinh
hoạt trong Hội cựu sinh viên Ba Lan ở Hà Nội và
thường tới Đại Sứ quán Ba Lan dự lễ độc
lập, hắn xin được visa khá dễ. Giấy tờ đầu
tư cho phép mang vào 30 nghìn euro hợp pháp để hắn
góp vốn cùng Anna mua cổ phần tại một nhà nghỉ
15 phòng mới xây ở Pomorze. Thăm lại Warszawa, hắn
thấy cộng đồng ngày càng đông người Việt nhưng
số người từng học và làm việc trước thay đổi
thể chế năm 1989 ngày một ít đi, giới lao động
mới sang Ba Lan thì đông hơn hẳn. Nhưng với họ, đi
Ba Lan hay đi Nga, Đài Loan, Hàn Quốc, sang Anh làm
lậu...cũng vậy thôi, tất cả chỉ là chỗ kiếm
tiền, không gắn bó gì về văn hóa. Kinh tế Ba Lan
tốt hơn trước rất nhiều, đường xá khang trang,
đi lại tiện lợi nên hắn thấy kế hoạch làm ăn
ở vùng biển xa, chỉ toàn phục vụ khách Ba Lan lại
hợp hơn là bám ở thủ đô. Trong lúc chờ khu nhà
hoàn tất trang thiết bị, hắn và Anna thuê khách
sạn và đi nghỉ hè, lần thứ ba cùng nhau sau nhiều
năm.
Con
phố bên Nhà thờ đổ ở Trzęsacz
ban ngày luôn tấp nập với hàng quán nhưng trước
nửa đêm cả phố chỉ còn quán bia là có người.
Một đám khách say sưa hát theo bản nhạc của nhóm
Czerwone Gitary, chứng tỏ lứa tuổi của họ cũng phải
quá 50. Trên cầu nhô ra bãi cát có mấy cặp trai
gái ngắm cảnh biển về đêm khi trăng vừa lên. Anna
dựa đầu vào vai hắn, mái tóc vàng trong bóng đêm
chỉ là một mầu nâu sẫm thoáng hương mặn của
muối. Hắn hôn nàng, trong đầu chạy nhanh một ý
nghĩ “Nếu từ ngày đó
hắn không về Việt Nam mà ở đây với nàng thì
cảm xúc yêu thương có mạnh như bây giờ hay đã cùn
mòn?” Tình nồng nàn sau năm
tháng nhớ nhung như mật ngọt, khác với sinh hoạt
vợ chồng buồn tẻ ngày nào cũng va mặt vào nhau.
Nhưng hắn tự ghét mình vì ý nghĩ so sánh kỳ
quái đó. Hắn thấy có tội với Hương.
Tiếng
hát trong quán đã dứt nhưng vẫn vương vấn trong
tâm trí.
Kwiaty
we włosach potargał wiatr
Po co więc wracasz do tamtych lat?
Zgubionych dni nie znajdziesz już,
Choć przejdziesz świat i wszerz i wzdłuż.
Gió thổi tung hoa trong mái tóc em
Sao cứ trở lại năm tháng đã quên?
Những ngày đã mất tìm cũng chẳng nên
Dù chân đã đi dọc ngang bốn bể.
Po co więc wracasz do tamtych lat?
Zgubionych dni nie znajdziesz już,
Choć przejdziesz świat i wszerz i wzdłuż.
Gió thổi tung hoa trong mái tóc em
Sao cứ trở lại năm tháng đã quên?
Những ngày đã mất tìm cũng chẳng nên
Dù chân đã đi dọc ngang bốn bể.
Kwiaty we włosach potargał wiatr,
Dawno zmieniłaś swych marzeń kształt.
I dzisiaj Ty, i dzisiaj ja -
To drogi dwie i szczęścia dwa.
Gió thổi tung hoa trong mái tóc em
Em đã đổi thay hình của mộng mơ
Em
của hôm nay, và anh ở đây
Đường đời hai ngả, hạnh phúc hai xa...
Đường đời hai ngả, hạnh phúc hai xa...
Có
thật là phải như thế? Hắn tự hỏi.
Buổi
sáng ở biển người ta thường được tiếng sóng
ì ầm đánh thức. Nhưng hắn bừng dậy bởi mùi
cà phê thơm nức và mùi bánh mì nóng. Anna đã kịp
chạy xuống phố mua bánh và mở phòng, gọi hắn
là ‘leniuch’ (chú lười) và bảo có esspresso đang
chờ. Nhưng hắn lại thèm muốn một hương vị khác,
hương vị của làn da trong nắng sớm. Bước vào
bếp, chưa kịp để nàng ngoái lại, hắn vào luồn
tay vào trong chiếu áo cánh mỏng, kéo nàng về phía
mình và hôn vào cần cổ trắng nõn. Anna xoay người
lại để hắn ghì chặt lấy bằng cả hai tay và
đôi môi. Nàng thở hơi gấp: “Thế
không muốn ăn sáng ngay?” Hắn
cười: “Có món khác ngon
hơn”, và bế nàng đem ra
phòng khách, đặt nhẹ nhàng xuống chiếc sofa in
hình cá biển và san hô, rồi hai người chìm vào
nhau mặc cho nắng sáng đã chiếu rõ trên nền nhà,
qua khung cửa kính có họa tiết nhấp nhô hình hoa
huệ.
***
Hắn
kể với nàng về cuộc hôn nhân của mình. Vợ hắn
như bao cô gái Hà Nội khác, không xấu, không xinh,
kỹ tính, ít nói, chăm sóc tốt gia đình mình, giữ
kẽ với nhà chồng và thủ thế với họ hàng.
Giống nhiều phụ nữ cùng thế hệ, việc biểu
lộ tình cảm của cô ít khi bột phát, nồng nàn.
Sang tuổi ngoài 40, cô hay đi chùa, ham cúng bái hơn
yêu đương chăn gối. Xét cho cùng hắn cũng chẳng
là ai mà trách cả một xã hội như thế. Người
ta sống vì những điều quy ước, những bổn phận
siết chặt mềm mại đời này qua đời khác hơn
là cho bản thân. Ở xứ sở mà niềm tự hào
thường dâng trào khi nhắc lại quá khứ tô đậm
màu tưởng tượng, người ta coi tình yêu là tiền
đề cho sinh đẻ, cho nhiều năm khó nhọc nuôi dưỡng
một hai bộ gene cũng không có gì quá độc đáo,
để đời sau lại kéo tiếp như thế. Người ta ăn
cắp, ăn cướp cũng là ‘vì gia đình, vợ con’
và sau thời khắc kỷ nay xả hết cỡ trong sự ăn
tiêu, làm tình và tàn phá môi trường.
Với
riêng hắn, trải nghiệm ở châu Âu đọng lại như
một bệnh lý. So sánh thì vô cùng mà cuộc đời
sao thật ngắn. Những dằn vặt về một cuộc
sống thực và hư, của ngày nay, ngày xưa cần lối
thoát. Hắn đã về, làm tròn chữ hiếu với mẹ
cha và thấy xã hội ngày càng xa lạ nên chỉ muốn
giành lại phần đời còn lại...để làm điều gì
đó cho bản thân ích kỷ.
***
Nằm
về phía Bắc Bangkok, Koh Kret là hòn đảo chỗ sông
Chao Phraya cuộn thành một vòng tròn từ Thorn Buri
ngoặt sang phía Tây. Khách nước ngoài sang Thái Lan
thường tới Pattaya, Huahin, Phuket nên Koh Kret chỉ thân
thuộc với người Bangkok. Họ đến đây vào cuối
tuần để đi xe đạp, để thăm các xóm có lò làm
gốm, có chùa và khu chợ bên bến đò.
Hắn
và Anna rời hotel, bắt tàu SkyTrain tới bến Tapan
Thaksin. Từ đó, hai người mua vé đi thuyền ‘speed
boat’ cùng rất nhiều du khách Trung Quốc. Tiếng
máy rất ồn không thể nói chuyện được nên hắn
chỉ lặng yên ngắm nàng và ngắm sông. Nàng mang
một chiếc váy lụa màu tím nhạt kiểu Thái vừa
mua ở chợ trời Khao San, đôi vai tròn trong cánh áo
màu mỡ gà, hay cánh tay khép lại giữ chiếc túi
da. Gương mặt sáng, đeo cặp kính đen nhìn ra xa xa
vẻ thích thú với phong cảnh nhiệt đới mà lần
đầu nàng biết. Hắn ôm chiếc ba lô nhỏ, nhìn ra
ngoài, nhớ lại lần đi thuyền trên sông Đồng Nai
lên Biên Hòa, cũng cảnh dòng nước cuồn cuộn
chảy, đẩy các đám lục bình trôi ào ạt, kéo theo
mọi ưu phiền.
Đến
bến cuối hai người bước xuống và thuê xuồng ra
đảo. Tiếng máy rú lên sầm sập và tốc độ
thật nhanh của xuồng máy làm hai đứa hét lên mà
không nghe thấy tiếng của nhau. Nhưng chỉ 20 phút sau
thuyền đi chậm lại và đáp vào gần một ngọn
tháp vàng rực. Chợ Koh Kret có bán tôm cá sấy
khô, hoa thiên lý khô và đủ các món ăn Thái nhưng
hai người không mua gì mà hỏi lối đến Wat Phai Lom.
Hắn đã nhờ một người bạn Thái là nghệ sỹ
ở Bangkok hẹn trước một vị sư để làm lễ. Họ
bước vào Pia To, ngôi chùa chính xây theo phong cách
cố đô Ayutthaya và cũng là tu viện của các sư
người Mon, dân tộc từ Myanmar đến Thái Lan hàng
trăm năm trước.
Trong
lễ cưới Phật giáo kiểu Mon, Anna khoác thêm một
tấm lụa trắng, còn hắn khoác chiếc áo kiểu
Thái không có cổ, cũng màu trắng. Khi hắn đề
nghị chuyện này, nàng không phản đối mà chỉ tò
mò muốn biết lễ Phật giáo đó là như thế
nào. Hắn cố gắng tìm những từ tôn giáo trong
tiếng Ba Lan để nói là tín đồ đạo Phật tin
rằng ở mỗi kiếp, con người có nhân duyên để
gặp nhau, và nếu cùng chung ý nguyện, thì họ sẽ
giúp nhau lên một tầng khác, trong một kiếp khác,
có thể ở thế giới này một lần nữa, hoặc
vào một trong muôn vàn thế giới của chúng sinh,
hoặc của thiên thần.
Vị
sư trẻ nói tiếng Anh khá tốt giới
thiệu nghi lễ, rồi bắt đầu đọc kinh bằng tiếng
Pali. Hắn và Anna quỳ xuống lắng nghe mà không hiểu
gì. Chùa Thái Lan không đốt hương nhiều như chùa
Hoa và chùa Việt, trừ những ngày lễ. Thế nhưng
mùi hoa bưởi, hoa nhài, hoa sen thoang thoảng từ bàn
thờ và từ ngoài vườn theo gió thổi vào làm
không gian trong chùa thiêng liêng, trầm lắng lạ
thường. Xa xa đâu đó ngoài xóm bên sông còn có
tiếng gà gáy cuối chiều vọng lại, đưa hắn về
thời bé thơ ở xóm nghèo ngoại thành Hà Nội.
Cuộc đời đúng là một dòng sông và bao chuyện
xảy ra chỉ như làn nước trôi qua. Nhưng ở một
điểm dừng ngắn ngủi này – chỉ vài hôm nữa hai
người sẽ bay khỏi Bangkok – hắn sung sướng vì đã
trả ơn cho tình yêu của người con gái trời Âu đã
giữ trọn mối tình hồi trẻ với hắn. Hắn tự
thấy như đang cùng nàng rẽ vào một quãng đời
khác, dù chỉ chốc lát thấy mình qua tấm gương
thời gian, qua bức tranh chì bên ngọn hải đăng luôn
đón gió biển.
Quà
hắn tặng nàng cho đám cưới chỉ hai người biết
với nhau là một chiếc đồng hồ vàng có khảm
đá xanh, đeo bằng sợi chỉ hồng mua ở bến sông.
Pobierowo 08/2018 – London 12/2018
Lý
Thanh
(Lý
Thanh là bút danh của nhà báo Nguyễn Giang, và anh là
người viết văn
nghiệp
dư, sống và làm việc tại
London,
UK)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét