Trong một bài thơ, Nguyễn Nguyên
Bảy (NNB) hé lộ cho người đọc biết lai lịch đời anh cùng xuất xứ những vần
thơ đầu tiên của anh:
Nơi ấy các bà Tiên dạy tối biết
khóc
Các bà Tiên dạy tôi biết cười
...Nơi ấy là kinh thành cổ tích
Nơi ấy là đời tôi…
Và trong
tập "Thủng thẳng với thơ" (Nxb Văn học-2011), chúng ta đọc được
những dòng sau của NNB: "Tôi là một nghiệp dư thơ. Một nghiệp dư say mê
thơ điên cuồng, chép chép ghi ghi và chôn ghi ghi chép chép ấy vào mộ huyệt của
im lặng, chỉ thỉnh thoảng, không cưỡng nổi điên khùng, nửa đêm thức giấc,
ngửa mặt nhìn trời đọc thơ gửi mây, tặng gió."
Nhưng những
dòng tự bạch bằng thơ đầy thi vị lẫn văn xuôi trần trụi trên chỉ giúp ta có
thêm mối đồng cảm ban đầu khi đọc thơ NNB, chứ tuyệt nhiên không giúp ta dễ
dàng mở được một cánh cửa để khả dĩ bước vào thế giới thơ anh! Là một người
yêu thơ và đọc khá kỹ thơ NNB, hơn thế, còn là bạn vong niên của anh từ khi
là một cậu sinh viên văn khoa năm nhất từng bị "thôi miên" bởi hàng
chồng thơ chép tay cao vật vưỡng của đôi vợ chồng thi sĩ nổi danh NNB &
Lý Phương Liên, tôi xin cố gắng thử mở một trong những “cánh cửa Thơ” đó.
Nguyễn Nguyên Bảy ( bìa trái) và Nguyễn Hiếu
1. Ta có cảm tưởng, thơ NNB giống
như một cuốn kinh đồ sộ tập hợp biết bao suy tưởng cảm nhận của người thơ về
đời sống, về cội nguồn của đời sống và của thi ca... Song cuốn kinh ấy lại
tựa ma trận của lòng người mà bản thân người làm thơ cũng phải thấy ngợp, đôi
lúc có cảm giác chết chìm, có điều đã luôn phải vùng quẫy để thoát ra khỏi
cơn lũ ngôn từ và ấn tượng để quan sát, để chiêm nghiệm; và trong khi quan
sát chiêm nghiệm đời sống thì quan sát chiêm nghiệm ngay chính những ấn
tượng, những kinh nghiệm sống cùng quan niệm xử thế của mình, để rồi từ đó,
"Thơ đã ra đời như những liều thuốc giải độc trí tuệ, vì nếu thơ không
được sinh ra hẳn tôi đã mắc chứng điên và bị buộc phải vào nhà thương Thường
Tín"- như chính tác giả tự bạch. Như vậy đối với NNB, làm thơ chính là
một cách ứng xử chủ yếu với đời, một cách bảo vệ phẩm giá đặc biệt, một vũ
khí hữu hiệu chống lại sự đểu giả, là một lý do và một phương thức chính để
tồn tại...
NNB khiêm
nhường tự nhận là "người thơ nghiệp dư", nhưng thực ra đó là một
tác giả rất có ý thức về sự nghiệp thơ ca của mình, và rất chuyên nghiệp. Có
điều, anh đã chọn cho mình con đường thực chông gai.
Trong những năm
tháng mà âm thanh cao vút của những bài hát, chất sử thi - giao hưởng hùng
tráng của những "Sư đoàn", "Đường tới thành phố",
"Tình yêu và Báo động", "Lửa đèn", "Mặt đường khát
vọng", "Mặt trời trong lòng đất"(1)... là âm hưởng
chủ đạo cho tinh thần xã hội (và đặc biệt cần thiết), thì cái bè trầm
"âm âm lời Chinh Phụ lời Kiều" của thơ NNB chắc chắn không thể được
coi trọng nếu không muốn nói là bị hắt hủi, bị truy bức ra khỏi đời sống cộng
đồng! Lại còn "Tình yêu mượn cánh thánh thần chở che" nữa, rõ là
"ngạo mạn" và "xấc xược"! Mặc dù anh tự nhận đứng trong
hàng ngũ: "Chúng tôi đang viết những tráng ca/ Những tráng ca bằng gươm
bằng súng", nhưng riêng anh thì lại không viết tráng ca mà lại viết:
"Thơ run rẩy những lời có cánh/ Khúc yêu mình trộn khúc thương
con"- "Lời ru không vui không buồn/ Thơ hạ cánh đậu nghe lạnh
ngắt" khi bếp lạnh và "bụng trống không", khi "Khúc yêu
trong màn khóc mớ/Khúc yêu lạc giọng ru con" (Tam tấu).
Giữa những ngày
sắt thép máu lửa đó, anh lại dám "Mơ sen": "Bỗng cò nghiêng
cánh/ Gánh tôi về/ Thuyền sen", và dũng cảm "Ngẫm về thơ" theo
cách chẳng thời thượng chút nào: "Thuyền thơ chở đầy trăng thơ/ Đầy trà
đầy rượu đầy hoa/ Và đầy nhân tình". Chiến tranh không cướp đi của người
thơ nguồn cảm hứng vô tận về "Mùa yêu": "Âm dương tình ngỡ
trong mơ/ Mùa yêu chẳng có bến bờ thời gian". Trong "Mùa yêu"
đó, dường như anh cố gạt đi những âm thanh chát chúa để lắng nghe rõ hơn bao
giờ hết "Dân ca buồn con sáo sang sông" hay "Rêu cổ tích rù rì
kể chuyện" và ngẩn ngơ trước số phận do các bà Tiên xếp đặt: "Phải
định mệnh nhân duyên/ Bỏ bùa anh lạc lối/ Ai rủ chân sen tới/ Cửa rừng nơi
hẹn hò?".
Trong khi những
lứa đôi chia tay nhau để ra trận, người thơ lại "Hát tặng biệt ly":
"Nghe sông chảy lững lờ đôi buồm trắng/ Nghe phố xá nằm dài trong mật
nắng/ Nghe nôn nao cánh bướm đậu hoa vàng".
Cái thời cần
kêu gọi lòng căm thù và ý chí chiến đấu thì anh lại đưa ra những lời đạo lý
cổ xưa của ông cha tưởng chừng lạc lõng: "Này cò này vạc này nông/ Không
sống tử tế đừng mong thành người" (Ký ức ca dao).
Một "Vườn
chiều có thực" của thời chiến tranh có khói hun muỗi từ giẻ mà anh lại
hình dung như một vùng đất cát mềm của Tiên Dung - Chử Đồng Tử, của Giếng
ngọc Cổ Loa, có tiếng hát Trương Chi, ở đó "Tôi đang độc ẩm cuồng say/
Những ly rượu thơ cồn cào bụng đói/ Bao nhiêu người đang đói/ Có thơ uống như
tôi đâu/ Sao em lại cúi đầu/ Thương tôi mắt khóc?" (Vườn chiều).
Trong những năm
đáng lẽ chỉ được hát ca, anh đã ngậm ngùi kể về người mẹ vẫn "Thương
thằng mộng mị thơ ca/ Chọn yêu cuộc tình kiếp nạn", và về người vợ
"Chít trắng đầu tang/ Nuôi đàn em thay mẹ/ Mom sông cô gái nhỏ/ Tay cò
mắt vạc kiếm ăn" (Thuyền tình).
Những điều
"xa lạ" và "lạc lõng" nói trên- xét cho cùng là vô
hại, thậm chí chúng cần thiết giúp cho con người giữ được cái gốc nhân bản
trước những thảm cảnh khốc liệt, song đã vô tình góp phần tuyên một cái án
"không có án" để gia đình thi sĩ phải ôm hận "ly hương"
suốt mấy chục năm trời sau đó!
Thực ra, trong
những năm tháng đạn bom ấy, người thơ có phần lập dị này cũng sống như tất cả
cư dân Hà Nội. Anh đã sững sờ trước "những kỳ ngộ đẹp như thơ/Tình mình
làm sao sánh được/Ấy là lẽ vì sao em không khóc/Trước gian nan tem gạo phiếu
tiền". Anh đã khóc như tất cả những người dân lúc đó trước câu chuyện về
người bác sĩ trẻ chết bởi bom Mỹ trong ngày cưới, đã xúc động run người trước
hành động bất chấp hiểm nguy của những con người lao động bình dị: "Cô
bác sĩ Cửa Đông nuốt khóc/ Thiệp hoa phủ xác nửa mình/ Anh thợ điện người Ô
quan Chưởng/ Bới nhặt nửa mình trong đổ nát Khâm Thiên..."(Ca trù mùa
thu). Anh cũng trở về cơ quan để "thay ca trực chiến" như mọi phóng
viên khác của Đài tiếng nói VN, cũng "đồng loạt cánh tay giơ" để
"lên Tháp Bút viết hùng ca"... Nhưng, cái "tạng" của anh
không phải là "hùng ca"; và điều đáng quý là, người thơ hiểu rõ hạn
chế của mình, anh đã không ít lần tự dày vò: "Mặt trận cờ reo quân reo/
Trào lửa mà đành nuốt khóc/ Đứng tựa lưng trăng/ Bút thay gươm súng/ Chuốt
câu thề" (Tự họa tuổi trai).
Người thơ có
khát vọng lý giải sức mạnh chiến thắng của hiện tại bằng mạch nguồn từ xa
xưa, nên cũng dễ hiểu anh thường để "Hồn quanh quất nơi cửa rừng nguyên
thủy" (Về cội). Với trí tưởng tượng phong phú tràn ngập cảm hứng lịch
sử, NNB hình dung: "Trăng nhớ những đêm Lạc Việt/ Gươm kiếm mài ngời
trăng lu" (Chứng tích chiến tranh). Anh say sưa với "dòng sông chảy
qua làng Việt cổ", với những nơi nào từng có "Sá cầy lật mở binh
thư/Người cấy lửa vào lúa/ Người chép lửa vào thơ" (Huyệt lửa). Anh là
nhà thơ đầu tiên của thời mới tìm thấy sự đồng cảm lạ lùng với Thánh thơ Cao
Bá Quát và có cả một tráng ca về cụ: "Đời Quát có hai vua/ Thơ Quát chỉ
có quyền chọn một"- và Cao Bá Quát đã chọn"một ông vua là con dân
mẹ nước"; thế nhưng "Đói khát vẫn hoàn đói khát/ Xã tắc khốc hư/
Ngậm miệng vái xin trời Phật", và anh nguyện sống với "Thác đoàn
quân Cao Bá Quát/ Vào tử tìm sinh." (Thánh Thơ).
Từ cảm hứng
lịch sử, NNB nhìn lại cuộc chiến tranh hiện tại và có cách cảm nghĩ riêng.
Trong bài "Quả Mặt trời", trước tội ác hủy diệt của giặc Mỹ, anh
băn khoăn: "Chảy đi đâu hỡi máu"- "Máu đã chảy lên thành Quả
Mặt trời"- nhưng ấn tượng hơn cả vẫn là "Giấc mơ thơ nát bấy như
bùn" và "Tọa tòa sen Phật bà khóc" (Chùa Một cột).
NNB muốn
"Tượng hình làng quê sông núi" theo cách riêng của anh: "Tinh
tú tôi ơi, sao thốt lời buồn/ Lập nghiệp gì đâu đời thi sĩ/... / Em gái quê
cần lời thay nước mắt/ Ủ vào khăn tặng bạn trước chia ly/ Và với tôi điệu vần
ấy đôi khi/ Cứu tuyệt vọng xô đời xuống vực" (Tinh túy ngộ duyên). Nhà
thơ biết phận mình: "Đời cha nghèo xác/ Chỉ những bài ru là giàu có hơn
người" (Ru con)
Mặc dù NNB
không chỉ một lần tôn vinh: "Nụ cười là đặc sản của dân tộc tôi"
(Đề dưới nụ cười), song ở thơ anh phần lắng đọng rung cảm nhất lại là
"giọt khóc rơi xuống thì thầm" của người phụ nữ (Cầu thương). Bởi
chính người thơ tuyên bố: "Mà tôi/ nghĩ lạ lùng chưa/ Học khóc/ Bởi sợ
đời dư hát cười" (Học khóc). Nhà thơ không chỉ nhìn thấy những quả bom
rơi xuống đe dọa cuộc sống bình yên, mà còn nhìn thấy cả chặng đường lam lũ
đói khổ của các làng quê Việt từ ngàn xưa và chưa biết đến bao giờ chấm dứt:
"Sông cái chia nhánh còng số tám/Nước khóa làng tôi"- "Thương
đất trắng chìm trong lũ" (Làng nước)- "Những câu ru nhang cháy/
Dưới trời bâng khuâng hương" (Lời ru dưới mỗi mái nhà). Nhà thơ tự nhận:
"Anh có lỗi đã thăng hoa bi kịch". Nhưng anh không thể làm khác,
bởi một lẽ giản đơn: "Anh hằng kể con nghe kiếp sống ông bà/ Trải bao
nhiêu cực khổ/ Vẫn trước sau làm người tử tế/ Ngẩng đầu đi khắp thế
gian". Điều khiến anh băn khoăn giữa lúc phải trốn chạy cái chết từ trên
trời rơi xuống cũng là: "Con anh sao chẳng nên người/ Cháu anh sao chẳng
nên người/ Không nên người/ Thì sao còn sông Cái sông Con/ Sao còn tiếng hát
Mỵ nương/ Chèo đò lên non Tản/ Bỗng cháu nội hươ hươ thức sáng/ Hỏi sao ông
khóc ông ơi?"
Xu thế thời đại
là phải vươn tới đỉnh cao, phải "ra ngõ gặp anh hùng", vậy mà anh
dám chỉ nhận mình là "tre nứa": "Thông tùng cao ngạo phong ba/
Chẳng lẽ tre nứa không là đời cây?/ Mặc ai chò chỉ lim mây/ Ta vẫn kiêu hãnh
một cây giang thường".
Trực giác giúp
nhà thơ nhìn thấy giữa thời "hùng ca" đó đã manh nha những vấn đề
đáng quan ngại đối với đạo lý truyền thống - đó là chủ nghĩa xu thời, chủ
nghĩa thực dụng, thói ích kỷ, cùng những thứ không thể tồn tại bên cạnh sự
"tử tế"; nhiều lần anh đã phải thốt lên cay đắng: "Quanh ta
hỏi có bao người/ Gian manh mà vẫn sống đời tụng ca" (Bài ru trằn trọc).
Những khi chán
nản, "Giữa Âm Dương mông lung", buộc phải "Hát rong tôi trộn
kinh hoàng vào đêm", nhà thơ chỉ biết "Tôi tụng tôi/ Nhân quả"
(Cửu tụng). Thất vọng bởi những lời hứa hẹn xuông, những diễn văn lắm lời với
những viễn cảnh to tát chỉ có ở thiên đường, anh "thắp nén nhang
thơ" (Chép thơ công nghiệp đất) và khao khát "Ra với biển đi tất cả
những ai/ Hoang tưởng như tôi biển mời ra biển" (Biển mời), hay cư xử
một cách khá nghênh ngang làm tức mắt chẳng ít người: "Tôi bay trên bể
đời giông tố hát nghêu ngao". Anh tìm đến Thiên nhiên như cội nguồn sinh
lực và lòng tin yêu cho mình: "Tâm hồn anh bay lượn giữa thiên nhiên/
nghe ríu rít tiếng thơ trong lá cỏ"- "Công danh thế là quá đủ/ Phận
mình thuyền thúng qua sông"... Tất cả cốt chỉ để mong vượt qua những
nghiệt ngã của đời mà anh kể lại trong "Tự thuật sinh tồn". Thế
nhưng anh đã vô tình "Phạm luật người quan họ" và phải trả giá:
"Khốn khổ thân tôi đa tình/ Phạm luật người quan họ/ Cõng một cánh bèo
giạt trôi" (Quan họ không ngoại tình).
Và gần suốt đời
nhà thơ phải "hơ hoảng" khi đã quá dại dột, dám liều mạng làm một
chuyện tày đình vào những năm 70 thế kỷ trước khi tuyên bố thẳng thừng:
"Thơ là Thơ. Thơ không phải là địa vị xã hội của người làm thơ", và
"phạm tội trẻ con" là "Luận Kiều thời chinh chiến..."
Không
hiểu sao, tôi chợt liên tưởng người thơ có phần "kỳ dị" này với
nhân vật bác sĩ - nhà thơ Zhivago của nhà văn Nga Boris Pasternak. Trong biết
bao sóng gió kinh hoàng của số phận, cắn răng chịu đựng những tàn bạo phi lý
của chiến tranh, Zhivago vẫn băn khoăn trăn trở với sự nghiệp văn chương của
mình; anh đã viết bản trường ca "Xao xuyến" với ý tưởng sáng tác
như sau: "Bao lâu nay chàng vẫn muốn miêu tả cái cảnh trong ba ngày một
cơn bão đất đen tối, lúc nhúc dòi bọ, bao vây và tấn công ra sao cái hiện
thân bất diệt của tình yêu, ném đất đá rào rào vào nó, vào cái hiện thân ấy,
hệt như những lớp sóng biển dồn dập đập vào bờ và chôn vùi bãi biển..."
(Bác sĩ Zhivago - Lê Khánh Trường dịch)
2. Trong khi "tìm cho mình
một con đường khác, lầm lũi riêng mình, lầm lũi yêu thơ", NNB hầu như
không bao giờ hoàn toàn hòa nhập vào cảnh ngộ, mà anh thường có góc riêng kín
đáo nhìn đời, nhìn chính thân thế và tâm trạng của mình để phát hiện ra các
thi tứ và "tụng" thành thơ sau khi đã âm thầm vượt qua bao nỗi buồn
đau cay đắng. Sau khi đã tạm thời "hóa thân" vào nàng Kiều, vào Từ
Thức, vào các bà Tiên, vào Sông Cái, vào Thánh Thơ... nhà thơ dần lùi xa khỏi
những nhân vật tưởng tượng để bắt đầu miêu tả, dựng lên thế giới tinh thần
của họ - bằng cách đó mở rộng đến gần như là vô hạn biên độ của xúc cảm và tư
duy nhận thức. Sau khi đã "khách quan hóa" nhân vật trong tưởng
tượng, NNB làm công việc khảo sát, đánh giá về thân phận, phẩm cách... của
nhân vật đó và đồng thời cũng tự bộc lộ thân phận cùng phẩm cách của chính
người thơ. Thường là, từ một nguyên cớ, một biểu tượng giàu sức thuyết phục
hay đã từng quen thuộc trong đời sống lịch sử - văn hóa dân tộc, sau khi đã
làm giàu có thêm cho biểu tượng bằng nội lực văn hóa thẳm sâu và thăng hoa nó
bằng xúc cảm thơ tràn trề, anh quay trở lại đào sâu mãi vào chính nội tâm
đang ngổn ngang (thậm chí có thể còn đang hoang mang nữa) của mình như đã tìm
được chỗ dựa, đã tìm được vỉa mạch, và chính tại những chỗ này, khi "Anh
bật khóc thành tiếng/ Nước mắt tràn đê", thơ anh thường lóe sáng một cách
thực bất ngờ, khiến người đọc rung động ngây ngất... NNB thường đem cả trải
nghiệm đời mình làm chỗ dựa, làm sự tham chiếu cho từng câu thơ một! Và phải
chăng điều này cũng đã góp phần quan trọng khiến thơ NNB trở nên vô cùng
phong phú- phong phú đến rậm rịt làm người đọc như lạc vào mê hồn trận của
chữ nghĩa phập phồng cảm xúc của tác giả nhưng vẫn được tác giả kéo riêng ra
một chỗ để suy ngẫm về nhân tình thế thái. (Tiêu biểu như các bài: Từ Thức bơ
vơ, Sông cái mỉm cười, Ô cửa vuông trăng, Âm dương, Gia phả, v.v.)
Nhưng ngay cả
khi viết về (hay viết cho) một đối tượng gần gũi thân yêu nhất, NNB cũng sử
dụng biện pháp tạm gọi là "phân thân" này. Trong bài "Hai ngôi
sao không lặn bao giờ", đoạn đầu nhà thơ bày tỏ tình cảm trực tiếp với
vợ: "Anh không nhận ra em/ Một năm có là bao xa cách/ Em ủ đầu anh vào
ngực/ Anh không thể nào hỏi được/ Sao tiều tụy thế mình ơi?" Nhưng ngay
liền đó, nhà thơ tách ra khỏi quan hệ trực tiếp để quan sát người vợ kỹ càng
hơn, thông qua biểu tượng là đôi mắt, và đồng thời quan sát miêu tả chính nỗi
xúc động của mình- hơn thế, để khái quát về thân phận của người phụ nữ trên
"đường đời nhiều cạm bẫy": "Chỉ còn đôi mắt/ Đôi mắt chạm chạp
u buồn/ Một nốt ruồi đẫm lệ/ Chỉ còn đôi mắt/ Đôi mắt vẫn như ngày nào/ Đôi
mắt ngày nào tôi nói yêu em/ Đôi mắt khép nhận lời/ Chỉ còn đôi mắt của vợ
tôi/ Toàn thân em như cây thị rũ lá/ Khô cành trước gió ban mai/ Chỉ còn đôi
mắt/ Đôi mắt kể tôi nghe/ Lưng ngày nắng quật/ Đêm ngồi bỏng vú nuôi con/ Vai
gánh nỗi thương chồng/ Đi xa đường đời nhiều cạm bẫy/ Chỉ còn đôi mắt/ Đôi
mắt đổ xiêu." Tới đoạn 3, đoạn sau cùng, nhà thơ lại trở về vị trí trong
đoạn thơ đầu, trực tiếp tâm tình với vợ; nhưng ở đây, đôi mắt đã được tách ra
thành đối tượng thẩm mỹ riêng biệt đối với cả hai người, và đó chính là một
sự "phân thân" cấp số nhân khiến cảm xúc được dồn nén nghẹn ngào
suốt từ đầu bài thơ đến cuối cùng chợt vỡ òa: "Anh ôm đôi mắt ấy/ Bỗng
òa đôi mắt khóc/ Tình rụa ràn mặt anh/ Đôi mắt u hoài trong vắt/ Đôi mắt ấy
chính là hai ngôi sao trên trời/ Đêm đêm nhìn anh/ Thức với anh/ Đi cùng anh/
Hai ngôi sao không lặn bao giờ." Thương cảm nhưng không chìm ngập trong
nó mà để đúc rút ra được biểu tượng của Cái Đẹp và Tình Thương! Đây có thể
nói là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu cho phong cách NNB (tạm
gọi thế); và nếu tôi có trách nhiệm trong Ban tu thư soạn SGK, tôi sẽ lập tức
đưa bài này vào chương trình văn phổ thông trung học!
Ngay từ những
bài thơ đầu tiên của mình, NNB dường như đã có xu hướng huyền thoại hóa những
hình ảnh, những chi tiết thơ, những quan sát cùng nhiều thi liệu khác đã trở
nên quen thuộc thậm chí mòn sáo nhưng khi nhìn qua "Gằm gằm nỗi gì sau
đít chai" cộng với một tình thương trĩu nặng thường trực thì "ngựa
lá đa sẽ hóa ngựa thần"... Xu hướng tinh thần và dần biến thành quan niệm
sáng tác vững bền này khiến người thơ thỏa sức chìm trong "Ký ức ca
dao", trong "lung linh cổ tích đêm mơ" và biết bao biểu tượng
của văn hóa Dân Tộc gần gũi với mỗi người dân Việt từ thở ấu thơ cho đến khi
từ giã cõi đời- dù ở bất cứ nơi nào trên trái đất. Thơ NNB, từ thời xa lắm
cho tới gần đây nhất, hầu như chỗ nào cũng ướt lệ và thầm thì âm hưởng những
lời ru nao lòng "rợp từng đàn cò trắng" hay "âm âm lời Chinh
phụ lời Kiều"... Nhà thơ đi trên "một con thuyền Trương Chi "suốt
từ thời tráng niên cho tới ngày lên lão mà chưa hề thấy mệt mỏi, chán nản,
ngược lại dường như càng đắm say thêm những gì được thấy được nghe trên con
thuyền ấy- kể cả tiếng hát cô đơn xa xót của chính mình... Nếu bình tĩnh đọc
và nghiền ngẫm dễ nhận thấy: mọi thi hứng... của NNB dường như được liên kết
lại trong/ và nhờ một trường cảm xúc - liên tưởng khá đặc biệt mà từ đó, tác
giả phiêu du vào cõi Mộng; và cái cõi Mộng này (nhiều lúc kèm theo Ảo) thực
ra cũng chỉ là hồi quang của ấn tượng lịch sử, của kinh nghiệm trường đời từng
được lặn sâu trong mạch đời sống tâm hồn Dân Tộc. Đó là sợi tơ lòng thầm kín
nhất, nhạy cảm nhất, và có thể nói là đắm đuối nhất kể từ những năm tháng
người thơ được "bú mớm" bởi tình thương của các bà Tiên trong
"Kinh thành cổ tích", để lúc nào cũng sẵn sàng ngân lên thành lời
ân nghĩa, thành "Thơ Dâng" (tập thơ nổi tiếng của thi hào Ấn Độ
R.Tagore). NNB bơi lội hít thở trong cái "trường" văn hóa Dân Tộc
đậm đà tình nhân ái của ông cha từ thở thơ ấu, từ buổi "lần đầu tiên
thấy lòng tôi chiêng trống", mà đối với anh dù đi suốt cuộc đời
"vẫn là mới sáng hôm qua"... Nhưng không phải nhà thơ vay mượn
những hình ảnh, những biểu tượng và sự thụ cảm dân gian ấy, mà chúng thực sự
là máu thịt của anh, nảy sinh từ trong huyết quản và từ tận tế vi tiềm thức,
chúng được chứng thực bằng nỗi đau riêng và nỗi đau chung của anh! Lắng nghe
một cách chăm chú chật vật, giao tiếp một cách đau đớn, đối thoại một cách
vật vã, để rồi sau đó nhà thơ chỉ làm cái việc là vội vàng run rẩy ghi lại
một cách chân thật những gì mà tiềm thức nói, những gì mà chàng Từ Thức tâm
sự, những gì mà Thánh Thơ Cao Bá Quát dạy bảo, những gì mà nàng Kiều thổn
thức, những gì mà bà Tiên phán truyền, những gì mà người cha trăng trối... Sự
thống nhất khá bền vững của hệ thống thi liệu và cách thụ cảm dẫn tới nghệ
thuật biểu hiện rất nhạy cảm với nỗi khổ đau này, theo tôi là một nét
đặc sắc riêng biệt khó trộn lẫn với bất kỳ ai của thơ NNB, lý giải phần nào
sức cuốn hút gần như huyền bí của thơ anh. Và chính cái trường cảm xúc - liên
tưởng nói trên cũng góp phần quan trọng tạo nên một người thơ NNB không giống
ai, nó tựa một thứ "tâm trạng mỹ học đặc biệt" được nhiều nhà
nghiên cứu văn học & nghệ thuật đã nói đến, tiêu biểu là của tác giả E.
Weber: "Tảng đá tư tưởng rơi vào tâm trạng này và làm dấy lên những đợt
sóng tinh thần, những đợt sóng này vươn tới sự biểu hiện bằng ngôn ngữ và sẽ
phải trở thành Thơ."(2)
Nhìn
chung, ở thơ NNB, các yếu tố tự sự (narrative) và trữ tình (lyric) hòa quyện
khó phân biệt - trong tự sự đã thổn thức trữ tình và khi trữ tình lại đậm đặc
tự sự - đó là một thứ tự sự giống thể văn kệ của văn học Phật giáo song lại
giàu trực cảm. Sự trang trải thi hứng đến ào ạt không ngăn cản NNB thường cô
đúc câu của thơ mình vào một hình thức ngắn gọn, mộc mạc như lời nói thường
ngày song có sức nặng triết lý như châm ngôn, tục ngữ và gửi gắm được suy tư
thâm trầm của một" thầy phù thủy" chữ nghĩa ("Có đường bởi có
bước chân/ Có ngã ba bởi đời cần tìm nhau" - "Em đã trả lại anh cho
đời/ Đã trả lại dòng thơ thủ thỉ cho yêu/ Cái chết bỗng trở thành hèn
nhát"- v.v.) Nhưng cũng không hiếm khi, thơ NNB diễn đạt phóng túng miên
man tựa trùng trùng con sóng mà để hiểu được ý tứ tác giả chẳng phải là điều
dễ dàng, chỉ có thể cảm. Như trong bài gần đây nhất "Hello" ta
thấy: tất cả những màu sắc rực rỡ hay xám xịt, những tiếng khóc tiếng cười,
những chuyện vui - buồn, cũ - mới trong cuộc đời này, từ nước Việt xa
xôi đến những bang của nước Mỹ… đều có thể ném vào hai câu thơ sau đây như
một cái “thùng không đáy”, đầu bài: “Chỉ thấy chữ múa chữ hát chữ hôn chữ làm
tình chữ gục đầu chữ khóc”, và cuối bài: “Người viết những dòng nhật ký này
hello cùng tiếng nức nở trong lòng”. Tới lúc đó, hình như người đọc cũng muốn
"hello" với một giọt lệ cay trong đáy mắt…
Tuy vậy,
trong lúc say sưa "Chuyền tay chữ hát xuống thuyền", thơ NNB không
phải bài nào cũng "đắc ý" làm thỏa mãn người đọc. Những kiến thức
dày đặc về triết học Á Đông, về sử học, nhân học, văn học dân gian... được
thể hiện trong thơ NNB không phải lúc nào cũng được xử dụng đúng chỗ, đắt
giá, thậm chí đôi khi chúng làm thơ anh nặng và rườm. Nhưng dù thế, chúng
cũng đều kịp thủ một "sứ mệnh" nào đó trong kho "Lưu trữ
yêu" của thi sĩ có thân phận khá đặc biệt này.
3. Trong một tập sách đối thoại về
thơ, nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Tùng có dẫn câu nói của nhà thơ Wiliam Carlos
Wiliams: "Khó mà có thể tìm ra các tin tức trong thơ, thế nhưng hàng
ngày, con người vẫn chết thê thảm vì họ thiếu những điều chỉ tìm thấy trong
thơ."(3) "Những điều chỉ tìm thấy trong thơ" đó- dĩ
nhiên phải là thơ thứ thiệt, chúng ta có thể tìm thấy trong từng dòng, từng
trang thơ NNB mà ở đó anh đã thành thật đến não lòng kể lại: "Thơ tôi đã
ra đời trong tiếng gõ cửa dồn gấp, trong những lời kêu thét bệnh hoạn, trong
đói nghèo muốn cuốn đời vào hèn hạ, nhưng nó vẫn kiêu hãnh khóc như trẻ sơ
sinh, trên cái bàn chỉ đứng ba chân...Tôi đã chép những chán nản ấy, những
thất vọng ấy, những cay đắng ấy vào thơ. Và hân hoan thay, thơ trả lại cho
tôi những dòng chữ nghĩa như khí cho tôi thở, như lửa cho tôi chế biến thức
ăn, như sông suối cho tôi tắm mát..." (Thủng thẳng với thơ). Và với
riêng tôi, đây mới là điều đáng yêu, đáng quý nhất của thơ NNB: Trầm lắng vào
cuộc đời Dân Tộc, đúng hơn là vào hành trình đau khổ của Dân Tộc- với phương
tiện khi là lục bát, lục bát biến thể, khi thơ không vần, thơ văn xuôi...-
nhà thơ bằng cách đó đã làm giàu có cho tinh thần mình, để trước hết dạy dỗ
cho con cháu anh thông qua "Bài ru trằn trọc" về những lẽ đời
nghiêm trang cảm động, và bài học quan trọng nhất là tình thương, lòng trắc
ẩn- cái điều đang thiếu trầm trọng trong hệ thống giáo dục của ta! (Tôi bỗng
nhớ đến Châm ngôn thứ hai trong việc giáo dục học trò ở tác phẩm lớn
"Émile hay là về giáo dục" của J.J. Rousseau chính là câu thơ Latin
của thi hào Virgile: "Tôi biết điều bất hạnh, chính nó dạy tôi cứu giúp
những người đau khổ").
Thưa Bạn
đã và sẽ yêu quý thơ NNB, hãy thử, với một cánh cửa tạm mở như trên mà bắt
đầu (hay thêm một lần nữa) bước vào thế giới thơ anh, và trước hết hãy đọc nó
như đọc một tập kinh cầu nguyện khi ta có Đức tin về Thơ, về Tình thương và
Ân nghĩa trong Cõi Đời còn nhiều gian truân và ngang trái này...
___________________
* "Thơ Nguyễn Nguyên Bảy
I", Nxb Văn học, HN-2010 & "99 khúc tặng Liên", Nxb Văn
học, HN-2012
M.A NAT
1. Tên những tác phẩm trường ca
& thơ dài nổi tiếng của Nguyễn Đức Mậu, Hữu Thỉnh, Bằng Việt, Phạm Tiến
Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Mạnh Hảo...
2. "Tâm lý học sáng tạo văn
học"- M. Arnaudov, Nxb Văn học, HN-1978, tr.536.
3. Dẫn theo: "Thơ đến từ
đâu", Nxb Lao động, HN, 2009
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét