XÁC ĐÀO
TRUYỆN NGẮN CỦA NHƯ BÌNH
Cha
tôi ngồi bệt xuống cội gỗ xoan, không buồn chùi hai bàn tay ngày một
thô sần hơn, lấm đầy đất vào chiếc quần bảo hộ. Ông với lấy điếu cày, hí
húi nhồi thuốc vào nỏ, chậm rãi, xòe diêm châm lửa rít lấy một điếu rõ
no. Trên tay vẫn giữ cái điếu, ông tựa hẳn tấm lưng gù gù dày một cục
vào chân chiếc bàn gỗ xoan nhẵn thín, nhắm mắt phả một ậng khói đặc
quánh.
Khí trời đang vào
đông, đủ lạnh để đám khói nhả từ cổ họng cha tôi ứ ra một cục. Cục khói
từ từ cuộn mình quanh quẩn hồi lâu trước mặt cha rồi mới phụt lên,
khuấy loãng ra rồi tan vào không khí. Cha tôi thường chỉ rít một điếu.
Rít cho thật sâu, một hơi kiệt lực. Là khi trời vào chiều, ánh dương
xuống tà tà trên cánh đồng đã vắng bóng người. Ấy là lúc ông đã mệt bã ở
ngoài ruộng, chỉ còn muốn lê gót trở vào chòi. Cơn mệt mỏi về thể xác
đã lộ rõ ở dáng đi chậm chạp, ở cái nhìn xa xôi hoang lạnh, và điệu ngồi
bệt xuống cội gỗ xoan, duỗi hai chân, nhét một vê thuốc lào đầy nỏ điếu
rồi xòa lửa rít một hơi thật sâu…
Mỗi
lần cha tôi rít thuốc lào, tôi cứ tưởng như ông không thở nữa. Mọi giác
quan ông dồn hết vào cú rít, tinh thần như an trú bất định trong lơ mơ
khói thuốc. Ông thu hết chút sức lực còn sót lại để nhốt cái bụm khói
xám ngoắc ấy vào ngực, giữ cho nó nén thật lâu ở đâu đó trong vòm ngực
rồi sau đó chừng không chịu đựng được hơn nữa, mới há mồm cho từng từng
bụm khói bật tung ra. Rồi lấy hết sức cha tôi phả một hơi cuối cho mù
mịt tầm nhìn. Khói thuốc lào đặc quánh, lờ đờ bay trong không gian căn
chòi nhỏ. Mắt cha tôi từ từ khép lại.
Những
lúc ấy, tôi không đoán được cha đang thư giãn, hay đang cố nén sâu vào
ngực một hơi thở dài. Cảm giác là lúc cha tôi trống không nhất. Tách rời
với bọn đào ở vườn, ông chỉ còn làm bạn với cái đám khói xám ngoắc. Ông
và khói, nhập nhòa vào nhau, như thể, phần xác ông tựa vào mỏi mệt ở
góc nhà, còn phần hồn ông đang thoát bay vơ vẩn mông lung cùng đám khói.
Ông ngồi đó, lơ mơ nhìn linh hồn mình bay lượn một cách vô nghĩa. Tôi
không biết, có lúc nào ông cảm thấy tôi đang tồn tại rất gần ông hay
không, hay thế giới của cha chỉ có đào, và triền miên chìm trong những
giây phút rỗng không tôi vẫn thường bắt gặp ở ông suốt những năm tháng
ông bỏ phố lên vườn đào để ở...
Cả
ngày chẳng bao giờ thấy cha nghỉ tay để hút thuốc. Cả ngày ông cằm cặm
ngoài vườn bên ruộng hoa. Đôi bàn tay những ngón thanh mảnh là thế giờ
thô sần lên, ngày một to bè những nốt u cục vì đào hố, cuốc đất, cả ngày
lấm lem bụi cát. Cha tôi yêu hoa, ông thích trồng hoa và đam mê đến độ
bỏ cả công việc của một bác sĩ hái ra tiền để lên hẳn bờ sông thuê một
công đất dựng chòi trồng hoa. Nhiều người nói cha gàn dở, còn cha thì im
lặng.
Tôi lớn lên đã
thấy mình như một cái bóng nhỏ nhoi quẩn quanh bên sự câm lặng của cha,
hết vườn đào lấm đất cho đến căn chòi nhỏ. Thế nên những ký ức về thành
phố sáng đèn, về người cha với cặp kính cận trắng thư sinh và chiếc áo
blouse trắng muốt cũng được chăm sóc kỹ càng của một tiến sĩ y khoa hầu
như không có trong tôi. Với tôi, ông là một người cha trầm uất, không
bao giờ chia sẻ và sống lặng lẽ. Lặng lẽ đến mức tôi chưa bao giờ tin,
tôi có thực là con của cha hay không, hay tôi chỉ là một cá thể bé nhỏ
như những cây đào kia tồn tại bên cha. Nhưng cha chăm chút cho đào, còn
tôi cứ mặc nhiên lớn. Ông yêu loài hoa mỗi năm chỉ nở đúng một lần vào
mùa xuân, đúng dịp Tết Nguyên đán này đến nỗi quanh năm ông hãm một vườn
đào be bé con con độ 100 mét vuông trên cánh đồng hoa mùa nào thức nấy
của ông. Vườn đào trái vụ của cha tôi xanh mướt mát giữa cánh đồng hoa
muôn màu sắc. Nó như một đôi mắt im lặng mở ra một cái nhìn vui vẻ hồn
nhiên ở giữa không gian đồng áng bát ngát bên triền sông. Nó cũng như
một thiên đường lộng lẫy nhất cha tôi dựng lên để chờ đón một điều gì kỳ
diệu nhất trong thế giới tâm hồn bí mật của cha mà tôi chưa một lần
được bước vào. Cha tôi dựng một cái chòi nhỏ, đủ kê một cái giường nhỏ,
một chiếc võng đay cho tôi nằm chơi, hoặc khi cha mệt ghé lưng thư giãn.
Cái võng đay là chỗ yêu thích nhất của hai cha con. Tôi thường nằm
chơi, ngắm hoa đào mỗi khi cha làm vườn và đợi cha xong việc. Cha đặt
thêm ở đó một cội gỗ xoan để ngả lưng hút thuốc lào và ngắm hoa đào. Cha
tôi thích ngắm hoa đào tàn cuối vụ. Cánh hoa rụng như mưa đào bay trong
khu vườn mỗi khi gió thổi. Tôi thì chỉ thích ngắm hoa đào khi hoa vừa
hé nụ. Những bông hoa màu hường như những mặt trời hồng bé xíu đậu trên
đám lá xanh nõn, ngậm sương tinh khiết long lanh nhìn tôi và mỉm cười hé
chào ánh mặt trời. Tôi không thích những ngày hoa đào tàn, cánh đào
rụng như mưa bay, nụ hoa đào vốn đã bé chỉ một chốc đã trơ lại cái cồi
không. Nhưng cha tôi thì lại thẫn thờ cả tiếng đồng hồ trên ghế ngắm
nhìn xác đào rụng xuống. Vốn ít nói nên mùa hoa đào rụng cha lại càng
trở nên im vắng, tĩnh lặng hơn. Đôi khi tôi bỏ quên nỗi sợ sệt im vắng
của cha. Tôi nghịch như quỷ sứ trên chiếc võng đung đưa góc lán với
những trò chơi đồ hàng mẹ con. Tôi quen chơi một mình. Một mình đóng đủ
ba vai cả cha lẫn mẹ và tôi nữa. Tôi đùa nghịch và hét vang lán. Lần nào
ông Bền cũng đe tôi giữ yên tĩnh cho cha mày thiền. Đừng có phá làm
động ý nghĩ của ông ấy. Tôi lè lưỡi rụt cổ cười. Ông Bền bảo với cha lớn
lên cho tôi về thành phố đi học kẻo để con bé chơi một mình thấy tội.
Tôi vênh mặt cãi ông Bền: “Ai bảo ông là con buồn. Con thích ở đây, con
thích ở giữa vườn đào này”.
Những
lúc tôi và ông Bền cãi nhau, cha ngồi đó, chìm trong ánh hoàng hôn
nhạt, chìm trong sắc màu rực rỡ của vườn đào, không một mảy may để ý đến
ông cháu tôi nói gì. Tôi không biết trong ý nghĩ của cha, tôi có bao
giờ có mặt không, và tôi ở đâu trong nỗi cô đơn đến tịnh vắng của cha
như vậy. Tôi nhớ rất lâu những giây phút đó, những khoảnh khắc đó. Hình
như, trong một nỗi đau câm nào đó, ông đã đánh rơi tâm trí mình vào đâu
đó trong những cơn mưa đào đang rụng thẫm cả mặt vườn.
Vườn
đào bé của cha tôi tha lôi đủ các loại đào. Nào đào rừng Tây Bắc, đào
rừng Mộc Châu, đào ta của miền Trung, đào bích, đào phai của Hà Nội. Mỗi
loại đào một dáng vẻ, tự nhiên tươi tốt, tự nhiên xanh, và cứ thể trổ
hoa tùy ý. Những gốc đào trồng thả tự nhiên không uốn éo, cắt tỉa nên có
một sức sống hoang dại và vạm vỡ. Lá đào xanh biếc, nụ hoa còi cọc, căm
cắm như bà cô khó tính nhưng đến lúc bung nở thì cánh nào cánh nấy mập
mạp, nụ đào mẩy hồng, tươi rói, mạnh mẽ, kiêu hãnh trong gió xuân.
Cha
không bao giờ chặt cành hay bán bất kỳ một gốc đào tự nhiên nào trong
vườn đào bé con của mình. Ông Bền nheo nheo mắt cười bảo tôi, cha mày
trồng vườn đào này là để ngắm, là để chờ mẹ mày về đấy. Nhưng từ bé đến
lớn, không ai nhắc hay nói cho tôi về mẹ nên tôi không có khái niệm mẹ.
Ông Bền nói thế tôi chỉ biết ngẩn cái mặt tò te ra cười nhe nhởn với ông
như không.
Có được
vuông vườn hoa này trong cánh đồng hoa mấy công đất cha thuê, ông Bền
bảo cha tôi phải bán cả cái cổ phần nho nhỏ ở bệnh viện để lên đây bỏ
vốn thuê đất trồng đào. Cha trồng đào thế để bán vào dịp Tết, nhưng chủ
yếu là cha ươm vườn đào tự nhiên để có một góc tĩnh vắng ngồi thiền. Ông
Bền nói với tôi, trồng cây là một cách để “dưỡng tâm dưỡng trí”. Tôi
không hiểu lắm những vấn đề rối rắm phức tạp của người lớn. Tôi cũng
không bận tâm nhiều đến việc cha chưa bao giờ gọi tên tôi hay ôm tôi vào
lòng. Tôi chỉ thấy sung sướng khi được chạy chân trần dẫm lên những xác
đào tơi tả dưới đất ẩm vừa mềm, vừa mịn vừa xốp. Tôi mặc sức chạy chơi
dưới nắng, nằm lăn trên đất trong vườn đào để cho hoa đào rụng man mát
trên má. Và sung sướng hơn nữa, tôi chưa bao giờ phải đến trường như đám
con nít mũi dãi phải đi học lớp lá lớp chồi ở đây. Tôi và cha sống cái
đời sống thô mộc như thời tiền sử ở trong ruộng hoa bát ngát này.
Tết
năm nay đến sớm. Nắng vẫn còn chan chát trên những ruộng đào chỉ chực
bung nụ, cha tôi đã xoay trần với những gốc đào thế được khách đặt sớm.
Mỗi sáng, tôi cùng cha lấy nước ở bến sông lên tưới cho các gốc đào thế.
Những gốc đào thế cha ươm trồng nơi đây thường được công nhân trồng đào
của cha gom về khi hết Tết. Những gốc đào thế kiêu hãnh, oai dũng, sang
chảnh lúc chớm Tết là thế, giờ tàn lụi xơ xác trong cái sự tàn tã của
hết Tết. Khi những nụ hoa cuối cùng rữa nát, Tết cũng đã hết cái hương
vị nồng nàn của hơi hướng mùa xuân, người ta ném thẳng cành đào ra
đường. Cha tôi dặn những người thợ trồng đào qua Tết, đạp xe thồ khắp
phố phường lượm những gốc đào thế đã tàn lụi nhưng còn khỏe mạnh để mang
về cho cha ươm lại. Cha nói, không nỡ nhìn thấy xác đào hấp hối đầy
đường, những gốc đào mình dành cả một năm, hai năm thậm chí dăm mười năm
trời để chăm bẵm.
Tôi
không thích Tết. Là khi cha rít thuốc lào nhiều hơn lệ thường. Những
buổi chiều tà, khi cánh đồng hoa đã tắt những vạt nắng cuối trên đám
ruộng. Những người thợ hoa cuối cùng đã xếp quang gánh liềm hái vào góc
vườn và cởi chiếc áo bảo bộ lao động nặng trịch bụi đất xuống để ra về.
Đó cũng là lúc cha trở về căn chòi nhỏ và dựa lưng hút thuốc. Cha hút
nhiều, hút sâu, hút chậm như muốn nuốt lấy bầy khói đậm đặc kia vào
ngực, như muốn nín giữ những cơn ho sặc sụa vào trong...
Trong
những buổi hoàng hôn cận Tết, tôi nhìn theo ánh mắt cha ra mênh mông
vườn đào đang bời bời trổ mã không hãm phanh, nụ hoa nở bung chi chít.
Hoa đào nở khoe sắc rực rỡ, rồi lụi tàn, rồi lả tả rụng… đẹp như một
giấc mộng.
Tôi không
thích Tết bởi những gốc đào trong ruộng đào của cha và những người thợ
trồng đào đã được bứng đi hết. Chỉ còn lại những hố sâu vuông vuông, lởm
chởm những đất được đào lên. Những người thợ trồng đào sau khi thu
hoạch đào phục vụ cho Tết, họ bảo nhau để nguyên những cái ô vuông đất
đấy chờ xác đào sau Tết đưa về trồng lại xuống hố. Có một lần, ông Bền
nói với tôi, nhìn những ô vuông như những cái huyệt đào. Tôi hỏi ông sao
lại gọi là huyệt đào. Ông Bền giải thích: Thì đào bứng đi khỏi đất, như
thể người ta đã khai tử cho nó. Nếu không được trồng lại, coi như đào
chết. Để nguyên huyệt đào để ra giêng ông đi lượm lại gốc, mang về chôn
xuống, ông cho nó lại sống khỏe re mà.
Tôi
không thích ruộng đào của cha tôi có những cái huyệt đào nằm trơ hốc
suốt mùa xuân. Thi thoảng tôi dẫn đám bạn mon men lại ruộng đào, tò mò
ngó xuống những cái huyệt đào trống hoác phủ ngập bóng tối và tưởng
tượng về những chuyến chu du của đào để kể cho chúng bạn nghe, khiến lũ
bạn tròn xoe mắt. Những cái huyệt đào con con làm cho cha tôi buồn mỗi
chiều về. Khi bóng cha bị chìm lấp trong bóng hoàng hôn mênh mông ngập
phủ, cha thường ngó đăm đắm vào ruộng đào không còn một bóng cây. Ông
Bền than cha mày kỳ dị. Đã xác định trồng đào để bán kiếm tiền mà bán
hết vườn đào lại ngồi buồn như chết lụi đâu rồi.
Năm
nào, cha cũng phờ phạc hết cả Tết. Ông chỉ uống rượu và rít thuốc lào.
Ông Bền nói, cha mày trồng đào để bán, để kinh doanh mà mỗi khi cắt cành
đào, bứng gốc đào đưa đi cho khách, cha mày như phải bả đào. Cha mày
chẳng giống ai, chắc là chữa bệnh thần kinh cho bệnh nhân nhiều quá rồi
mình cũng sinh thần kinh ra đấy. Tôi nghe ông Bền nói thế lại nhe nhởn
cười. Mặc kệ, tôi thích cha tôi ở đây với tôi và trồng đào. Ngày Tết,
cha chở tôi về phố, thăm ông bà nội, thăm các bác một tí tẹo trong chiều
ba mươi Tết, đón Giao thừa với ông bà nội, chở tôi ra bờ hồ Hoàn Kiếm
du xuân được một lát, rồi lại vội vã chở tôi trở về khu vườn tĩnh mịch
của mình. Hết Giao thừa, vườn đào vắng hoe. Ông Bền về quê đón Tết. Mấy
bác thợ đào cũng dắt díu về quê, tận ngoài rằm mới lại kéo lên. Lũ bạn
cũng đi đâu hết, hai cha con tôi đón Tết trong vườn đào bung nở khoe sắc
rực rỡ, giữa những tiếng đào rơi như mưa bay, giữa im lìm những huyệt
đào thế, cây đã được bứng đi bán chỉ còn trơ lại hốc đất. Tôi thấy lạ,
cha tôi trồng cả một vườn đào có đến dăm chục gốc đào tự nhiên, chăm
bẵm, đẹp mê hồn, có giá cao đến thế nhưng cha không bao giờ bán. Kể cả
khi có những cây đào được khách nài nỉ trả tới hàng chục triệu đồng. Tôi
không biết tại sao cha làm vậy, cha trồng đào, kinh doanh đào rốt cục
cũng chỉ để có điều kiện thỏa mãn thú chơi đào. Hay ông trồng lên đó ký
ức của mình, nỗi buồn của mình, sự thất vọng về một điều gì trong thẳm
sâu tâm hồn ông mà không thể chia sẻ. Buổi chiều, khi hoàng hôn loang lổ
phủ bóng tối lên những hốc đất trơ trọi... cha ngồi đó nhìn những gốc
đào đã bị bứng đi hết, nhìn vào những lỗ đen vô tận như một kẻ bị đào
thải...
Nhưng tôi cũng
sợ mỗi lần hết Tết. Bởi sang tháng 3, khi những gốc đào đã được tái sinh
lại, đang mơn mởn xanh non thì ông Bền và thợ đào của cha tôi sẽ cưa
cụt hết tất cả các nhánh cành, chỉ chừa lại mỗi cái cội gốc ứa nhựa trụi
lủi, hay cái thân cây bị phạt ngang hết cành lá trơ khấc. Cả cái thân
cây, cội cây què cụt ấy, cha tôi trát lên đó bùn, trấu và bọc lại bằng
ni lông đen. Cả vườn đào thế trông dị dạng, tật nguyền… Ông Bền nói đào
đang chịu đau để ủ lấy những nhánh mầm mới xanh non chíu chít đầy hoa
cho mùa Tết sau. Nhưng tôi ghê sợ mỗi lần nhìn thấy cả vườn đào, rừng
đào sau Tết như những kẻ tật nguyền bị cắt cụt hết đầu, hết chân hết
tay. Những cây đào kỳ dị, què quặt, đứng nhẫn nại chịu đựng sự hành hạ
thân xác của con người để mọc đúng hình thế mà con người mong muốn, rồi
đau đớn chờ đợi để trổ hoa, để làm cái danh phận mua vui cho thiên hạ
trong ba ngày Tết. Tôi nói với ông Bền, con thà nhìn những cái huyệt đào
trơ đất còn không thấy sợ như khi nhìn những gốc đào thế bị cưa cụt hết
cành thế này. Ông Bền cười bảo tôi. Đã mang thân đào thế phải chịu. Đào
thế thường mọc cành non trên thân cổ thụ. Thân càng già, càng xù xì cội
gốc càng đắt giá. Chịu đau một tí nhưng đến Tết có tiền triệu cháu ạ.
Ông Bền nói với tôi chừng nào con trai ông học xong đại học trên phố ông
bỏ nghề trồng đào. Ông thích trồng hoa nhưng không phải là trồng đào.
Trồng đào cay cực lắm, nhất là khi chặt cành chiết cây uốn thế đào. Cây
đau, mình cũng trào nước mắt.
Nhưng
Tết năm nay, cha giao hết vườn đào thế và cả vườn đào tự nhiên cho ông
Bền để dắt tôi trở về thành phố. Tôi nhớ vườn đào quay quắt, nhớ cái
võng đay tôi nằm chơi đùa nghịch còn cha thì ngồi lên cội gỗ xoan tựa
cửa hút thuốc lào. Tôi nhớ cảm giác khi cả hai cha con im lìm lắng nghe
âm thanh mơ nhẹ của những cánh hoa đào rụng lả tả trong gió xuân. Tôi
nhớ ông Bền, nhớ những cây đào thế bị đào đi hết còn trơ lại những hốc
đất. Tôi không quen với nhịp sống hối hả của thành phố. Tôi không thích
nền nhà lát đá hoa của ông bà nội. Tôi thèm cảm giác úp mặt vào đất ẩm
mềm, tơi xốp và nghe mưa đào bay bay trên má mình. Cha không biết, tôi
vẫn trốn trong nhà vệ sinh và tơi bời khóc.
Giao
thừa, cha diện comple đeo cà vạt đỏ, sơ mi trắng phía trong, đi giày da
đen, uống rượu sâm banh với cả nhà ông bà nội để đón giao thừa. Năm nay
cha không còn chở tôi đi dạo bờ hồ Hoàn Kiếm. Tết, có một người phụ nữ
trẻ tên là Thoa mang một bó dơn đỏ tươi và hai bình hoa thủy tiên trắng
muốt đến nhà ông nội. Ông bà nội vui vẻ, dặn cha mồng Một mang một gốc
đào thế cha trồng sang chơi để biếu bố mẹ của cô Thoa. Cha chở tôi lên
vườn đào, bảo ông Bền qua vườn đào tự nhiên của cha chọn lấy một cây đào
rừng thật đẹp chặt để cha mang về đi biếu khách. Ông Bền nhìn cha ngạc
nhiên. Mang một nét mặt ngẩn ngơ, ông Bền đi chặt đào, thần hồn nát thần
tính để ở đâu mà lại chặt vào ngón tay trào máu. Tôi giấu cha lén qua
vườn đào nằm úp mặt vào đất bên những gốc đào và khóc. Không hiểu sao
tôi đã buột miệng gọi mẹ ơi. Một tiếng mẹ xa lạ lần đầu tiên bật ra từ
lồng ngực thổn thức khiến cha tôi đang đi lại ngoài vườn đào ngắm cây,
cũng dừng bặt lại ngây người nhìn.
Tôi
tiếc những cây đào sum suê tự nhiên trong vườn đào cha trồng dành riêng
để ngắm mà không bán. Thế mà bây giờ cha nỡ chặt nó mang đi biếu. Cha
còn bảo với ông Bền có khách thì bán hết cây trong vườn đào đi thu hết
tiền về trả công nợ tiền lương cho thợ. Cha nói với ông Bền năm sau cha
bận đi làm bác sĩ rồi, không còn về đây trông vườn đào cùng ông được
nữa.
Cha bỏ vườn đào, bỏ thú hút thuốc lào vặt và ngồi hàng giờ ngắm mưa đào bay thẫn thờ những ngày cuối xuân…
Đám
cưới của cha với cô Thoa tổ chức ở khách sạn tưng bừng. Tôi lên 7 tuổi.
Ông bà nội nói với cha sẽ giữ tôi lại ở nhà ông bà nội chăm sóc và đưa
đón đi học. Cha ôm tôi vào lòng. Tôi nhớ có lẽ đã lâu lắm rồi cha mới
lại ôm tôi. Lâu đến mức tôi không nhớ lần cuối ông ôm tôi vào lúc nào.
Mà cũng có thể tôi tưởng tượng ra là có lần nào đó cha đã ôm tôi nhưng
thực tế thì ông chưa bao giờ làm việc đó với con gái mình. Cha ghì chặt
đầu tôi vào lồng ngực rộng bè của ông. Tôi thấy rõ tim cha đập mạnh sau
mấy lần áo. Cha hỏi tôi: “Con muốn gì không?”. Tôi ngạc nhiên thấy mình
khô đét như một xác đào đã chết, và lặng câm như một huyệt đào trên mặt
ruộng. Dù tôi muốn đến chết đi được cái vườn đào cỏn con cha trồng lên
đó bao nhiêu đào rừng, thả cho cây mọc tự nhiên chỉ để dành riêng cho
hai cha con thỏa thuê ngắm đào. Tôi đã đau tê dại như một gốc đào thế bị
chặt hết ngọn. Dù tôi muốn đến có thể khóc òa lên được để van xin cha
cho tôi quay lại vườn đào với ông Bền. Tôi muốn nhiều thứ lắm, tôi muốn
cha ôm tôi thêm một lần nữa chứ không phải là một lần duy nhất. Tôi muốn
được trở lại như ngày xưa, và nếu muốn cha cứ đi đi để tôi ở lại với
vườn đào, với ông Bền. Thế nhưng, thay vì nói, tôi đã lặng phắc nhìn cha
và lắc đầu, dù tôi muốn đến chết đi được cầu xin cha đừng chặt hết cây
trong vườn đào, đừng bán mảnh ruộng cho ông Bền hay bất kỳ ai khác… để
tôi có thể trở lại nằm bệt dưới đất ngửa mặt đợi mưa đào bay bay qua má,
lọt xuống khe cổ của mình nhồn nhột và khóc một trận cho đã đời.
Tôi
đã khóc rất lâu... lâu đến nỗi tôi không biết mình đã hết nước mắt mỗi
khi gặp chuyện gì đó buồn đến nỗi muốn khóc òa lên thật rõ to cho nhẹ
bớt.
Trong những giấc mơ
thiếu nữ, tôi vẫn thường mơ thấy có một thiếu phụ trẻ tóc dài, đón tôi ở
nhà ông bà nội và đưa tôi trở về vườn đào dạo chơi. Tôi không thể nhớ
được gương mặt người thiếu phụ đó, nhưng tôi nhớ rõ những lần đập mạnh
sau vòm ngực gầy, hệt như lần đập mạnh trên ngực cha mỗi khi ôm tôi vào
lòng. Tôi háo hức chạy theo bà về vườn đào. Chúng tôi chạy đuổi nhau
dưới gốc đào rồi ngã lăn ra đất cười khanh khách. Tóc của thiếu phụ dài,
quấn lên những gốc đào, bay bay. Bà ôm tôi vào lòng và bảo: “Mẹ chỉ có
thể sống được trong một ngôi nhà nhỏ mà khu vườn có trồng những cây đào
rừng trổ nụ hồng phai”. Trong mơ, tôi hỏi mẹ: “Sao lại thế ạ?”. Mẹ kéo
tôi vào lòng: “Có sao đâu, mẹ thích sống trong một mảnh vườn trồng nhiều
đào đến mùa trổ hoa mẹ ngắm mãi không biết chán”. Tôi ôm riết lấy hơi
ấm của mẹ và hỏi: “Sao cha trồng cả vườn đào rất đẹp, vậy mà bao lâu mẹ
không trở về”. Mẹ tôi quay lưng, bóng bà hút dần trong những cành đào
chi chít nụ đang lả tả rụng. Tôi choàng tỉnh dậy thấy nước mắt mình đầm
đìa trên mặt.
Tôi đủ lớn
để có quyền được nghe câu chuyện của đời mình nhưng ông bà nội tôi
không đả động tới bất kỳ chuyện gì khác ngoài cô Thoa và cha. Ngày dọn
phòng cưới, cha lưỡng lự mãi trước một bức tranh cô gái mặc áo dài dạo
chơi dưới vườn đào. Tôi thấy cha tôi ngồi ôm đầu trước bức tranh. Gương
mặt ông phủ trên đó bóng tối nhăn nhúm muộn phiền. Hồi lâu tôi thấy cha
gỡ bức tranh treo tường xuống. Mân mê bức tranh mãi, tôi nhìn thấy ông
trào nước mắt ra. Lau vội nước mắt, tôi tưởng cha sẽ gói ghém lại thật
kỹ để mang vào căn nhà mới. Thế nhưng không phải vậy. Hóa ra cha vội vã
mang nó lẳng vào đống rác trước nhà chờ vệ sinh đến dọn. Bà nội tôi len
lén chạy theo nhặt lên. Hình như mắt bà cũng ướt. Ông nội tôi dứt khoát
bước tới gỡ bức tranh trên tay bà nội xuống và lẳng nó về chỗ cũ của
đống rác. Tôi lén giấu ông bà đến bên bức tranh. Nhìn thiếu nữ trong
tranh, tôi nhớ tới người thiếu phụ trong giấc mơ tôi vẫn thường gặp nơi
vườn đào.
Cô Thoa thích
hoa dơn và hoa thủy tiên. Trong ngôi nhà mới của cha không trồng hoa ở
ban công. Đến mùa nào thức nấy cô Thoa chăm chỉ mua các loài hoa về cắm.
Cha bận mải mê với công việc ở bệnh viện. Cha xóa tiệt cái ký ức về
vườn đào và những năm tháng hai cha con sống nơi vườn đào hoang dại. Cô
Thoa bận với hai đứa trẻ con của cô và cha. Thỉnh thoảng ông nội chở tôi
đến nhà cha. Cha không còn ôm tôi để hỏi: “Con muốn gì không”… Tôi chắc
chắn một điều mãi mãi về sau, tôi nhớ cha không còn thêm một lần nào
nữa ôm tôi vào lòng để hỏi câu ấy. Có lẽ tôi đã quá lớn để cha tôi có
thể hỏi câu hỏi đầu tiên và duy nhất trong đời mà ông đã một lần hỏi con
gái mình.
Cha
tôi không bao giờ biết. Tôi vẫn thường trở về vườn đào xưa theo cách
của mình. Khi thì cùng với thiếu phụ không rõ mặt trong giấc mơ. Khi tôi
tự chạy xe máy lên vườn tìm gặp ông Bền. Tôi ước chi đủ lớn có tiền để
thuê lại vườn đào. Tôi sẽ tiếp tục trồng lên đó cả một rừng đào để ngày
nào cũng ngóng đợi, như cha tôi đã từng bỏ hết tất cả để sống, để chờ
đợi và để nuôi hy vọng. Dù tôi chẳng biết chắc ông đã chờ đợi ai, và hy
vọng vào điều gì. Tôi không muốn xóa ký ức, dù tôi quá mông lung để
tưởng tượng ra cái ký ức dù đẹp đẽ hay đau đớn trong cha nó hình thù ra
sao. Tôi chỉ biết chắc chắn, tôi vẫn trở về vườn đào xưa theo cách của
mình để tìm lại những năm tháng đáng sống, tìm lại những cơn mưa đào đã
rơi trong tuổi thơ lẻ loi đầy sung sướng ấy.
Ông
Bền đã già, đã về quê. Vườn đào giờ đã chuyển nhượng cho chủ mới. Mảnh
vườn nhỏ con con cha tôi trồng đào tự nhiên vẫn được giữ lại. Nhưng. Nếu
lên sớm, may ra còn gặp lại đào rừng, đào phai… Còn lên muộn, chỉ còn
lại xác đào rụng trên những hốc đất trống.
Truyện ngắn của Như Bình
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét