RƠM
Tản văn của Phạm Ngọc Tâm Dung
Theo lời bà, tôi sinh ra đúng vào
mùa gặt tháng Năm. Nhằm ngày tết Đoan Ngọ. Mẹ đang đồ xôi nếp thì tôi quẫy đạp
dứt khoát đòi ra. Mẹ dập lửa, toan lên phòng thì tôi đã nóng vội toài ra, nhào
vào đám rơm chiêm bông xốp đang phơi dưới sân, giữa cái nắng chang chang.
Nghe tiếng mẹ kêu, bà nội tôi từ
vườn chạy về. Người vội vàng đón lấy một mảnh sinh linh bé tẹo, bùng nhùng, hon
hỏn vừa rớt ra từ thân thể của mẹ, trên trán còn dính vài hạt lúa lép. Rồi tiện
cái liềm cắt cỏ, hồi chiều qua, ai đó móc vào "óc" quang trành gánh
rơm vứt chỏng chơ gần đó, bà cắt một nhát, gọn gàng cái dây lòng thòng màu hồng
nối tôi với lòng mẹ và thắt tạm nó bằng một sợi rơm.
Mẹ tôi lẩy bẩy, nhễ nhại, nhợt nhạt, kiệt sức sau cơn đau xé ruột gan, giờ nhão ra như một trái chuối đã bị ai đó khoét hết ruột, ôm riết lấy tôi cùng với đôi sợi rơm, lết vào nhà trong.
Tôi đã xuất hiện, trên thế gian
này, hệt như một cảnh dàn dựng của một thước phim bi hài về hình ảnh những mảnh
đời khốn khó.
Bà tôi bảo: Con bé này sinh ra ở
đống rơm khô, trên mình lại dính toàn lúa lép, nên chắc giàu sang chả đến lượt!
Dưng mà được cái, rạ rơm là thức ấm áp và hiền lành, chả biết hại ai mà chỉ
biết làm ra lửa...
Tôi cứ thế lớn lên cùng những
cọng rơm, cùng lời "tiên tri" của bà và cùng những câu ca dao, tục
ngữ về rạ rơm tôi nhặt được từ trong xóm, ngoài làng:
" Lửa gần rơm lâu ngày cũng
bén"
" No cơm tấm, ấm ổ
rơm"...
Có lần, bên cha mẹ, tôi hỏi về
nghĩa của câu: "Bò chết chẳng khỏi rơm" là sao? Mẹ tôi ôn tồn bảo:
- Làm thân con bò, sống ăn rơm,
đến khi giết thịt thì cũng phải thui bằng rơm mới xong"!
Châm xong mồi thuốc lào, cha từ
từ nhả khỏi, mà rằng:
- Ở đời, ai cũng phải có lúc cậy
nhờ, cầu cạnh người khác con à...
Và, thật dễ hiểu, khi vì sao,
trọn cuộc đời này, tôi luôn tự coi mình là một "thành viên" của rạ,
của rơm!
Quê tôi, tháng Năm, tháng Mười là
mùa của rơm rạ. Sau vụ gặt, rơm rải phơi đầy sân, đầy ngõ, đầy đường, bồng bềnh
đón nắng trời, gió biển, phơ phất như hoa lau, hoa mây và phưng phức mùi ấm no.
Bọn trẻ nghịch ngợm chơi trò trốn tìm thường chui vào nằm gọn trong lùm rơm mà
rúc ra rúc rích. Con Mướp và con Vàng cũng học theo và thi nhau "trốn
tìm" cùng lũ nhóc. Chị gà mái và lũ con gặp buổi mùa màng, no say, chả
thèm giãi thóc, chúng đua nhau nhảy tưng tửng trên đám rơm tươi mà ca mãi bài
ca lích... tích... của họ hàng nhà gà, để mặc cho bà mẹ chúng mắt lim dim đứng
bên vại nước, ngó nghiêng canh chừng an ninh cho "lũ trẻ" vì những
con diều hâu.
Chú Dần tôi là người có biệt tài
về nghệ thuật đánh đống rơm. Cây rơm nhà tôi cao lừng lững như một "trái
núi" thu nhỏ. Mỗi lần rút rơm, cho trâu bò ăn, chú rút rất cẩn thận, sạch
sẽ " không một cái rơm ngang". Sườn đống phẳng phiu, ngăn nắp giống
như một bức tranh vậy.
Những buổi chiều muộn, nhất là
những đêm trăng, đống rơm là thế giới kỳ diệu của lũ trẻ con và cả của những
đôi lứa yêu nhau.
Không hiểu sao, tôi cứ có cảm
giác: Mùa đông ngày xưa, lạnh hơn bây giờ. Ban ngày, những chiếc bùi nhùi rơm
vừa được dùng để giữ lửa, vừa đem ra đồng để sưởi ấm. Giờ giải lao, cánh phụ nữ
thường huơ tay cho đỡ cóng, cánh nam giới có tý lửa để bắn điếu thuốc lào
cho...cao sĩ diện.
Chiều tối, sau suốt một ngày chân
trần, áo mỏng vật lộn cùng giá rét, gió mưa, trong lúc chờ mẹ làm xong món đồ
ăn cuối cùng, cha sai tôi rút một mớ rơm khô, vào kế bên mẹ để sưởi ấm. Ánh lửa
reo nồng nàn, tiếng hạt thóc sót, dính vào rơm nổ lép bép, bóng cha mẹ trên
vách, cao lớn và nhẫn nại! Tôi vừa cời than rơm, vừa len lén nhặt, rồi thú vị,
nhâm nhi ngon lành, những hạt nẻ bung ra từ bếp lửa than rơm. Mùi thơm của cơm
mới, của món cá kho tương, của dưa muối... cộng với mùi thơm của rơm, rạ những
chiều đông ấy, đã ngấm vào sâu thẳm trong tôi, mà trở thành máu thịt!
Những đêm đông, mưa phùn, giọt
nước giá lạnh, cô đơn, nhỏ từ tàu cau, xuống tàu chuối nghe não lòng. Gió bấc
luồn qua khe hở lỗ chỗ của tấm vách đất, mỏng dính, được trát bằng rơm băm nhỏ,
trộn lẫn với đất bùn, lạnh thấu xương. Cả nhà tôi chỉ có một cái chăn bông cũ
màu nâu đã rách sờn xung quanh, một cái chăn chiên cũng cũ và vài đôi chiếu cói.
Việc chống rét hữu hiệu nhất chỉ có là ổ rơm. Làng tôi, không nhà nào là không
trải ổ rơm. Nhà ít người một cái, nhiều người vài ba cái. Ngày ấy, để làm được
một chiếc ổ rơm tiện ích, bà tôi phải chuẩn bị chu đáo ngay từ đầu vụ gặt. Rơm
tẻ phải được lựa từ ruộng lúa đồng cao, phơi được nắng, thơm tho, bó lại, cất
riêng nơi hiên nhà. Bà tôi dặn: Rơm nếp, rơm tám tuy cho mùi thơm nhưng không
được dùng làm ổ vì hay sinh rệp ( quê tôi gọi là con mát)!
Chiếc giường khuôn ổ "gia
truyền" ghép bằng gỗ xoan đen bóng được để lại từ đời các cụ. Gọi là
"giường" nhưng thực chất nó chỉ bốn mảnh gỗ "vai" giường to
bản, dày, thô, được ghép lại thành một cái khuôn hình vuông. Không có chân
giường và cũng chả cần thành giường. Mớ rạ sạch, óng chuốt, được "đánh
tranh" thành vài lớp thảm, trải xuống chỗ giáp đất, trong khuôn giường,
rồi mới trải rơm và chiếu lên. Nhìn chiếc ổ rơm vừa trải xong, phẳng phiu thơm
tho và sạch sẽ, bọn trẻ con đứa nào cũng muốn... nằm thử và...phá thử!
Tôi vẫn còn nhớ nguyên, cái cảm
giác, được gieo mình xuống ổ. Trên lớp rơm dày, xốp bập bềnh, bồng bông, ta lăn
thân đến đâu, dưới lưng ta lún thật sâu đến đó. Úp mặt, áp tai vào
"đệm" mà nghe tiếng lạo sạo chuyển mình của những sợi rơm thơm, bé
nhỏ, gầy gò, gọi cho ta niềm thương về những bông hoa lúa. Ơi những bông hoa
giời cho xứ nhiệt đới, gió mùa của chúng ta; Những "bông hoa" trỗ
toát từ đòng lúa, nó trong vắt, mơ màng hồn sương, hồn hoa, rồi vàng suộm, căng
tròn hồn quả, hồn hạt. Những bông lúa đã tận hiến, làm nên sự sống của con
người, gia súc, cầm thú, chim muông... giờ lại thành chiếc kén ổ rơm ấm áp, mà
ôm ấp ta, vỗ về ta, đưa ta vào giấc ngủ, để ta mơ về những giọt mồ hôi của cha
mẹ, những lời "ru rín ru ra" của bà với bao nhiêu là cánh vạc cánh
cò, con sáo sang sông; Để ta suy ngẫm về cái nghĩa, cái tình của Người Việt
trong hồn rạ, hồn rơm:
- " Nhà anh chẳng chiếu
chẳng giường
Chỉ ấm ổ rạ, nàng thương chăng
là?
- Yêu nhau chẳng quản cửa nhà
Tổ chim cũng lấy, chuồng gà cũng
theo"...
Thế đấy!
Thế mà, từ khá lâu, làng quê ta,
đã vắng bóng những cây rơm.
Nào đâu, những cây rơm chiêm, rơm
mùa của cha mẹ, của chú Dần, của bà con thôn Rãng, của làng quê Việt Nam, một
thời gắn bó
Những mớ rơm mộc mạc, gầy gò
quanh năm làm ấm cật, no lòng, chắc dạ những "người bạn nhà nông",
làm sâu những sá cày, góp phần làm đầy thêm bát cơm gạo tẻ của những kiếp cần
lao! Những cây rơm chiêm, rơm mùa, khi óng vàng, lúc cũ kỹ còn là vật tượng
trưng để đánh giá khả năng kinh tế của mỗi gia đình, là khởi nguồn của những
lời ca dân dã, những loại hình nghệ thuật độc đáo như tranh, ảnh nhạc hoạ, đặc
biệt là thi ca trong niềm tự hào của nền văn minh lúa nước Sông Hồng. Và khi
thể hiện cảm xúc ân tình, đến ứa nước mắt, về tấm lòng vàng của một bà mẹ Việt,
về những sợi rơm vàng thảo, vàng hiền Việt, Nhà thơ tài hoa Nguyễn Duy đã viết:
" Hạt gạo nuôi hết thảy chúng
ta no
Riêng cái ấm nồng say như lửa
Cái mộc mạc lên hương của lúa
Đâu dễ chia cho tất cả mọi
người"
( "Hơi ấm ổ rơm" -
Nguyễn Duy)
Bây giờ, mỗi độ xuân về quê, tôi
lại bần thần, bơ vơ bên ngõ vắng tím trời hoa xoan nở, lại đứng bên bờ ao, trên
nền của cây rơm ngày xưa, nơi gần cái chuồng bò của cha và chú tôi mà hoài
niệm. Rồi vô thức, tôi lẩm nhẩm đọc cho chính tôi nghe, cho không gian yêu dấu,
thân thương của tôi nghe, những câu thơ tuyệt hay của Cố Nhà thơ tài hoa Phạm
Quốc Ca mà tôi rất tâm đắc:
" Nhớ hun hút những ngày gió
bấc
Mưa bay mờ mịt cánh đồng
Cây rơm ướt bên hàng xoan trụi lá
Con bò gầy rút từng sợi mùa
đông".
Hà Nội 28-2-2023
Tâm Dung
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét