TẢN MẠN
VỀ HAI THI TÀI LỤC BÁT NGUYỄN DU VÀ
NGUYỄN
BÍNH
PHẠM CÔNG TRỨ
Ai cũng biết Nguyễn Du là đại thi hào
dân tộc. Văn chương của ông, cụ thể là Truyện Kiều, đã ảnh hưởng đến nhiều thế
hệ nhà văn Việt Nam. Trong số đó, theo người viết bài này, thì người chịu ảnh
hưởng nhiều nhất là Nguyễn Bính. Hai thi tài lục bát họ Nguyễn, một đại diện
cho lục bát cổ điển, một đại diện cho lục bát lãng mạn đã làm cho thể thơ thuần
Việt này xứng đáng với vị thế và sứ mệnh “chuyên chở tâm hồn Việt”.
“Giỗ Nguyễn Du mà Nguyễn Bính không vào
được a?”
Cứ trộm nghĩ, Nguyễn Du và Nguyễn
Bính, dù là cách nhau nhiều thế hệ, lại khác nhau về hoàn cảnh xuất thân, về học
vấn và tài năng, nhưng giữa họ vẫn như có ít nhiều cái duyên hạnh ngộ.
Tên đầy đủ bố mẹ đặt cho Nguyễn
Bính là Nguyễn Trọng Bính. Không rõ ông đã rút gọn thành Nguyễn Bính, và lấy
làm bút danh suốt đời của mình tự bao giờ, song theo tôi việc này không ngẫu
nhiên mà hàm chứa nhiều ẩn ý. Ai đã đọc hồi ký “Cát bụi chân ai” của Tô Hoài, hẳn
thấy có đoạn:“Nhà hát lớn có kỷ niệm Nguyễn Du. Nếu tối ấy không có ban tổ
chức Hoàng Châu Ký ra can thiệp, còn lôi thôi nhiều. Đã muộn, ở cuộc rượu nào vừa
đứng lên, Nguyễn Bính ngồi xích lô đến Nhà Hát Lớn. Những người giữ cửa không
cho vào. Thế là Nguyễn Bính làm toáng lên:
- Không phải giấy má gì
cả! Giỗ Nguyễn Du mà Nguyễn Bính không vào được a!
Người ta phải lập lại
trật tự với người say rượu. Rồi Nguyễn Bính cũng vào được. Chắc được vào rồi
cũng ngủ mà thôi”.
Mẩu hồi ức này của Tô Hoài, cho thấy Nguyễn Bính luôn ý thức rằng mình là “hậu duệ” của Nguyễn Du. Cái cụm từ “giỗ Nguyễn Du” thay vì “kỷ niệm Nguyễn Du” đã nói lên điều đó. Kỷ niệm, tưởng niệm, là những cụm từ du nhập từ phương Tây, mang tính chất lễ nghi trang trọng của một tổ chức dành cho ngày sinh của các danh nhân, người nổi tiếng. Cúng giỗ, theo nghĩa nguyên thủy, được người Việt thực hiện trong phạm vi ruột rà thân thích, và chỉ dành cho ngày mất. Nói “giỗ Nguyễn Du”, vô tình hay hữu ý, Nguyễn Bính đã tự nhận mình là hậu duệ của Nguyễn Du, là “người trong cuộc”. Và, như vậy, ông có mặt là lẽ đương nhiên “không phải giấy má gì cả”, dù rằng như phỏng đoán có phần hài hước của tác giả Cát bụi chân ai thì “Chắc được vào rồi cũng ngủ mà thôi” (!).
Hai cái tên Nguyễn Du và Nguyễn
Bính, nếu đặt cạnh nhau, ngẫm ra cũng khá thú vị. Chữ “Du” như đã hàm ẩn trong
nó cái sự sang trọng, quý tộc, còn chữ “Bính” bẩm sinh như đã có cái chất dân
dã, quê mùa - “quê mùa như Nguyễn Bính” (Hoài Thanh). Ấy là nói về cái đại thể,
chứ Nguyễn Bính cũng đâu hẳn quê mùa. Thì chính Hoài Thanh cũng đã trách “Kể, một
phần cũng là lỗi thi nhân. Ai bảo người không nhà quê hẳn?”; “Thế mà chính người cũng đã “đi tỉnh”
nhiều lắm. Dấu thị thành chẳng những người mang trên quần áo, nó còn in vào tận
trong hồn”.
Nếu vi von hình ảnh, thì Nguyễn Du
mang cốt cách của nàng Kiều tài sắc vẹn toàn, đã “nghiêng nước nghiêng thành” lại
giỏi cả “cầm kỳ thi họa”, còn Nguyễn Bính là cô gái của “hoa chanh nở giữa vườn
chanh”, mang cái duyên dân dã, hồn nhiên, quê kiểng. Nàng Kiều con Viên ngoại họ
Vương, căn cước ở tận Bắc Kinh (Đi mua người ở Bắc Kinh đưa về). Còn cô
gái quê mon men ra tỉnh thì “nhà nàng ở cạnh nhà tôi”, là con đẻ của ruộng đồng
nước Việt, nơi thôn Vân, ngõ Trạm, làng Thiện Vịnh, xứ Sơn-Nam-Hạ xưa.
Ai cũng hiểu, độ “lớn” của tác phẩm
là do tài năng của nhà văn quyết định. Mà tài năng lại phần nhiều được cấu
thành từ vốn văn hóa và vốn sống của mỗi tác giả. Trong thơ, ở Nguyễn Du tính
bác học nhiều hơn tính dân gian. Là dân gian đã được bàn tay bậc thầy chưng cất,
nhào nặn mà thành ra tinh hoa, tinh túy, kết tinh ở kiệt tác truyện kiều.
Còn ở Nguyễn Bính, dân gian lấn át tính bác học. Tác phẩm của ông còn như hằn
rõ cái vệt vân tay của một nghệ nhân tài hoa lấm lem bùn đất ruộng vườn. Cũng phải thôi, cậu ấm quý tử Nguyễn Du con Tể tướng
Nguyễn Nghiễm, em Nguyễn Khản cũng từng là Nhập
thị Tham tụng (ngang Tể tướng), sinh ra ở
kinh thành Thăng Long, được nuôi dưỡng, dậy dỗ bài bản từ tấm bé. Ông chẳng những
lầu thuộc “tứ thư ngũ kinh”, mà còn thông tỏ cả “tam giáo”, dù chốn trường ốc
ông không mấy đỗ đạt cao. Trong những lần sang Trung Hoa, ông còn dụng công tìm
đến những địa chỉ văn hóa nổi tiếng để mong làm giàu thêm cái vốn tinh thần của
mình. Chỉ từ khi gia thế sa sút lại gặp thời loạn ly, trải qua “mười năm gió bụi”
(thập tải phong trần) cáí chất dân dã mới ngấm dần vào ông.
Nguyễn Bính “con nhà nho cũ”, sinh
bất phùng thời, gốc nông dân, mồ côi mẹ khi mới ba tháng tuổi, sống sót là nhờ
bú mớm, chăm bẵm của bà con phía bên ngoại. Lớn lên được anh mẹ, là nhà nho
danh tiếng lỡ vận Bùi Trình Khiêm kèm cặp cả quốc ngữ lẫn nho học. Mười ba tuổi
ra thành phố được anh ruột, nhà văn nhà giáo Trúc Đường (Nguyễn Mạnh Phác), rèn
cặp thêm ít nhiều văn hóa Pháp. Học vấn của Nguyễn Bính chỉ ở cấp tiểu học. Với
vốn chữ nghĩa ban đầu ít ỏi như vậy, nhưng nhờ tố chất thông minh bẩm sinh, ông
đã tự tin mà đi “dan díu với kinh thành”, dám quăng thân vào “trường văn trận
bút” giữa thời bùng nổ của Thơ Mới, đang được trấn giữ bởi các bậc trưởng lão,
lắm chữ nghĩa, giầu mẹo mực. Con người nhôm nham,
chân tay thô nhám, quềnh quàng, tóc tai bờm xờm trong bộ quần áo Tây trắng
đã tã, cùng với chiếc hộp bánh bích quy cắp nách trong đựng thơ tình, là chân
dung của tác giả “chân quê” thời mới ra phố, nhìn dưới mắt Tô Hoài.
Đúng là trong rủi có may, trong họa
có phúc. Không có sự sa sút của gia tộc, sự biến thiên thời thế, sự bầm dập với
đời thì không có Nguyễn Du, hoặc là có Nguyễn Du của văn chương thuần Hán. Cuộc
“bể dâu”, như một định mệnh, đã buộc Nguyễn Du gác lại cái học khoa cử để “Thôn
ca sơ học tang ma ngữ”. Truyện Kiều, mà ông xem là “lời quê chắp nhặt
dông dài”, “Văn tế thập loại chúng sinh” - khúc bi ca về sự vô thường kiếp
người, được tựu thành trên sự trộn lẫn, tích hợp giữa điển tích, điển cố Trung
Hoa với dân ca quan họ xứ Kinh-Bắc quê mẹ, hát chèo vùng Sơn-Nam-Hạ quê vợ, hát
dặm của gốc quê Nghệ-Tĩnh.
Theo chiều ngược lại, không vì hoàn
cảnh éo le cùng nỗi khổ sinh kế, phải sớm đi dan díu với kinh thành, rung lắc
cùng sòng đời, chìm nổi cùng “mười hai bến nước”, thì không có Nguyễn Bính. Hoặc
là có Nguyễn Bính của văn chương bình dân, lẫn vào với ca dao, tục ngữ cùng với
truyện Nôm khuyết danh. “Lỡ bước sang ngang”, “Mười hai bến nước”, “Truyện tỳ
bà”… là kết tinh của sự hòa trộn chất dân gian quê kiểng của hát chèo, hát văn,
cùng tinh hoa của ca dao, phương ngữ, tục ngữ và bầu không khí lãng mạn đậm chất
thị thành du nhập từ phương Tây.
Trường đời chính là “lò cừ” vĩ đại
đào luyện nên hai nhà lục bát trứ danh này. Với Nguyễn Du thì là “Trải qua một
cuộc biển dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”, còn với Nguyễn Bính
thì
“Song le trường học thiên nhiên sẽ/ Đào luyện nhà thơ nên một người?”. Là một nhà nhân đạo lớn, một ngòi bút hiện thực
giàu nhân bản, Nguyễn Du đã lấy nàng Kiều, nàng Tiểu Thanh, cô Cầm, những
“khách má hồng”, cùng “thập loại chúng sinh”, để ký thác tư tưởng của ông về sự
gét nhau của “tài mệnh”, về sự “vô thường” của kiếp người. Là một nhà thơ lãng
mạn, song là con đẻ của thôn Vân, xóm Trạm, Nguyễn Bính cũng lấy những “em”, những
“nàng”, những “chị” để chuyển tải tư tưởng “thầy u mình với chúng mình chân
quê”, “lỡ bước sang ngang”, đầy tính nhân văn của mình. Nỗi buồn bản thân đan
cài với nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn thời đại làm nên vẻ đẹp, tạo sức hút riêng,
bàng bạc khắp các thi phẩm của hai thi tài này.
Thực tế, sau truyện kiều, thơ Nguyễn Bính được
tìm đọc nhiều nhất. Người ta, nhất là tầng lớp bình dân, nhớ truyện Kiều,
thuộc lỡ bước sang ngang vì nhiều lẽ, nhưng trước hết là họ, nhất là
phái nữ, tìm thấy trong thơ của hai ông bóng dáng mình, cũng như sự sẻ chia, cảm
thông, an ủi cho số phận mình. Sau nữa, thể thơ lục bát mà các ông chọn để chuyển
tải tư tưởng, giãi bày tâm sự là sản phẩm đích thực của cư dân nông nghiệp, là
“điệu tâm hồn” của người Việt, dễ nhớ, dễ thuộc, nên dễ đi vào lòng người. Cũng
là lục bát, song nếu nghệ thuật không đạt đến độ tinh xảo, vi diệu như lục bát của hai thi tài này thì cũng chẳng
thể quyến rũ được người đời đến vậy.
Theo Hoàng Tấn, một trong những người bạn thân nhất
của Nguyễn Bính, thì “Riêng về thơ, Bính tự cao tự đại quá quắt”, “Những
câu thơ của ai được Bính khen hay, “khuyên son” là một điều hãn hữu”. Vẫn
theo Hồi ký của Hoàng Tấn “Người mà Bính phục tài, tôn lên làm bực thày và
“nguyện suốt đời làm một người học trò nhỏ” là thi hào Nguyễn Du. Chẳng có thế
mà Truyện Kiều, Bính thuộc làu và lấy làm sách gối đầu giường”.
Trong “Bài thơ quê
hương”, gần như một thi phẩm cuối cùng tổng kết tình tự quê hương, tình tự dân
tộc của mình, Nguyễn Bính đã khẳng định: “Có
Nguyễn Trãi có Bình Ngô đại cáo/ Có Nguyễn Du và có một Truyện Kiều”. Vâng, chỉ có một Truyện Kiều của Tố Như. Hai ông họ Nguyễn này, một đại biểu cho khí phách Việt, một đại biểu
cho tâm hồn Việt. Hai ông, cùng với bao nhân vật hữu danh và vô danh khác, đã
làm rạng rỡ cái “Duy ngã Đại Việt
chi quốc/ Thực vi văn hiến chi bang” như tuyên bố trong Bình
Ngô đại cáo, từ giữa thế kỷ XV. Nguồn mạch dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại mới đã là cơ sở để
Nguyễn Bính viết những câu mộc mạc mà đầy nặng ân tình “Và ý nghĩa những ca dao, tục ngữ/ Ngày
càng thêm thắm thiết, ngọt ngào/ Và “Truyện Kiều” mới có chân giá trị/ Và Nguyễn
Du mới thành đại thi hào”.
Bài thơ cuối cùng của Nguyễn Bính
viết một đêm cuối năm 1965 đăng báo Tết Bính Ngọ (1966) là “Vịnh cụ Tiên Điền”,
nhân dịp kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du. Đây là một bài “tập Kiều” 18 câu,
cùng dòng chữ “Kính tặng Nguyễn Du và Truyện Kiều” với cặp câu kết “Lòng thơ
lai láng bồi hồi/ Tưởng người nên lại thấy người về đây”, mà người ta cho
là “sái”, là “mỗi lời là một vận vào khó nghe”. Nhưng Nguyễn Bính, kẻ nộp
bài, vẫn giữ nguyên thế, “Một
câu một chữ không sửa!”. Ông đã ra đi vào sáng 29 (lấy làm ba mươi)
Tết năm ấy, ở tuổi 49, để lại:“Năm mới tháng giêng mồng một tết/ Còn nguyên
vẹn cả một mùa xuân”. Cha đẻ Truyện Kiều, hai trăm năm trước ra đi ở tuổi
54, để lại cho hậu thế lời trăng trối
“Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”.
Thơ của hai thi tài này đều mang nặng
thiên tính nữ, cùng chung nỗi đau của “phận đàn bà” trong xã hội cũ. Tôi cứ lẩn
thẩn rằng, trước khi xuôi tay, nhắm mắt vĩnh biệt đời để đi vào thế giới bên
kia, hẳn Nguyễn Du sẽ gọi tên Thúy Kiều, Tiểu Thanh, cô Cầm – những nhân vật mà
ông đã ký thác tâm sự và đã làm ra tên tuổi ông. Còn Nguyễn Bính lẽ nào không gọi
tên những Nhi, Oanh, Tú Uyên, Hương… những “cố nhân” của ba bốn tao ân ái, vừa
làm khổ ông, vừa vinh danh ông.
Có một câu trong Truyện Kiều, như
Nguyễn Du viết dành cho Nguyễn Bính, là “Bể trần chìm nổi thuyền
quyên/ Hữu tài, thương nỗi vô duyên lạ đời”. Hữu tài thì đã hẳn rồi,
những nghệ danh mà dân gian phong tặng như thi sĩ “chân quê”, “ông vua thơ
tình”, “thi sĩ của giang hồ”…đã nói lên điều đó. Còn vô duyên, ấy là mẹ mất sớm,
sống trôi nổi, chưa bao giờ có một mái nhà riêng đúng nghĩa. Bốn lần cưới vợ,
hoặc sống như vợ chồng, bốn đứa con, mà khi chết thì không có người thân nào
bên cạnh. Với những trắc trở mang tính số phận như vậy, lẽ thường thì người ta
sẽ oán hận đời, hoặc sống buông xuôi. Song, kỳ diệu thay, vượt lên số phận Nguyễn
Bính vẫn là “thi sĩ của thương yêu” mang cái hồn thơ thiết tha, sâu đậm nhất của
làng quê Việt - nơi lưu giữ “tâm hồn Việt”.
“Cổ kim hận sự thiên
nan vấn/ Phong vận kỳ oan ngã tự cư”,
ấy là câu Nguyễn Du tự thán. “Càng tài sắc lắm càng oan nghiệt/ Bảy
nổi ba chìm với nước non”, cũng là câu Nguyễn Bính tự than. Không phải thơ Nguyễn Bính không có “khúc vui”, song
“ngày vui ngắn chẳng tầy gang”, mà ngẫm kỹ ra cũng chẳng khác gì cái tâm
thế của cô Kiều lúc canh tàn rượu tỉnh “vui là vui gượng kẻo mà”. Còn “Khóc
vụng mỗi lần tôi nhớ lại/ Men nồng rượu nếp nước hoa cam” mới là âm hưởng
chủ đạo làm nên thi nghiệp của người thơ mang phận sang ngang lỡ bước.
Tản mạn những dòng như vậy để thấy
rằng, Nguyễn Bính, dù không đạt tới tầm cao tư tưởng và chiều sâu văn
hóa Nguyễn Du, song vẫn là người xứng đáng kế tục ông, mang vào trong tác phẩm
mình cái tâm sự sâu kín của Nguyễn Du. Có thể khẳng định rằng, sau ca dao, dân ca, người thầy
dân gian vĩ đại ảnh hưởng đến Nguyễn Bính, thì người thầy tinh thần trực tiếp
chính là Đại thi hào Nguyễn Du.
Theo chúng tôi, Nguyễn Bính đã kế
thừa và nối tiếp Nguyễn Du chủ yếu và cụ thể trên hai khía cạnh: Một là,
xót thương cho số phận con người, trước hết là thân phận của người phụ nữ ở thời
đại cũ; Hai là, kế tục và làm mới thể thơ lục bát, cũng như về học tập
ca dao, tục ngữ, vận dụng điển cố, điển tích. Sự tiếp thu cũng như sự “cơi nới” của Nguyễn Bính có thể thấy rõ
qua nghiên cứu đối sánh giữa “Lỡ bước sang ngang” và “Đoạn trường tân thanh” và
giữa “Khúc tỳ bà” và “Khúc đoạn trường”. Song, đây là đề tài của một bài
viết khác.
Người tiếp nhận “y bát’ của Nguyễn Du
“Y bát” là cụm từ vốn thuộc văn hóa Phật giáo được
nhà văn tài danh quá cố Nguyễn Huy Thiệp “mượn” để luận về sự “truyền ngôi” của
nghệ thuật lục bát xứ ta. Theo Nguyễn Huy Thiệp, lục bát của Nguyễn Du truyền
cho Nguyễn Bính, rồi Nguyễn Bính truyền cho Đồng Đức Bốn. Nói Nguyễn Du truyền
cho Nguyễn Bính thì làng văn đều như “chúng khẩu đồng từ”, tâm phục khẩu phục,
còn như chuyện Nguyễn Bính có truyền cho họ Đồng hay không, lời phán của Nguyễn
Huy Thiệp có thiêng không, thì hãy đợi đã. Đã chẳng từng có nhà thơ tên tuổi tự phải lòng mình, trong giây phút phấn
hứng đã phóng bút viết “Hỡi người
xưa của ta nay/ Khúc vui xin lại so dây cùng người”, thì đến nay thực tế cũng như đã có câu trả lời
đó sao!
Nguyễn Bính cũng như Nguyễn Du, không chỉ có lục
bát. Thơ chữ Hán Nguyễn Du chứa đựng những tâm sự riêng ông, có mặt còn sâu sắc,
ám ảnh hơn cả Truyện Kiều. Thơ bảy chữ Nguyễn Bính có nhiều bài hay không thua
kém gì lục bát. Song, rõ ràng Nguyễn Bính thành danh bằng lục bát và lục bát
cũng khiến ông gần Nguyễn Du hơn cả. Nếu như lục bát Nguyễn Du là lục bát cổ điển
của một nhà nho tài tử thời trung đại, thì lục bát Nguyễn Bính là lục bát hiện
đại, đậm chất dân gian được lãng mạn hóa bởi một nhà Thơ Mới. Với Truyện Kiều, lục bát Nguyễn Du đã được xem
là một tòa lâu đài lộng lẫy, kèo cột bằng ngọc bích, tường mái dát toàn vàng
ròng. Lục bát Nguyễn Bính tuy không có cái lộng lẫy sang trọng như thế, song bù
lại nó lại có sự quyến rũ riêng, ấy là cái chất dân gian Việt, gần gũi thân
quen nên dễ đi vào lòng người.
Như đã nói, viết lỡ bước sang ngang, nhất là
khi soạn truyện tỳ bà, Nguyễn Bính
đã tiếp thu Nguyễn Du trên nhiều phương diện. Từ lựa chọn cốt truyện, chủ đề tư
tưởng, đến vận dụng các thủ pháp khắc họa tính cách nhân vật, trong tả tình, tả
cảnh, và nhất là nghệ thuật tự sự, dẫn chuyện,
chuyển đoạn... Để viết truyện Kiều,
Nguyễn Du, bằng bàn tay tài hoa bậc thầy, đã kết hợp nhuần nhuyễn tinh hoa của
ngôn ngữ bác học với tinh hoa của ngôn ngữ bình dân. Với truyện Kiều tiếng
Việt đã trở lên phong phú, linh diệu, có thể diễn tả được mọi cung bậc vui buồn
của người Việt. Trong Truyện Kiều những điển cố, điển tích Trung Hoa xuất hiện
dày đặc, thì ở truyện tỳ bà chúng được vận dụng ở mức vừa phải để nhường chỗ cho
những chất liệu chắt lọc từ văn học dân gian. Chẳng hạn, nỗi mong nhớ chồng của
Ngũ Nương, được Nguyễn Bính dân gian hóa, Việt hóa đến độ nhuần nhuyễn: “Hỡi
ơi! Đôi mắt đã mòn/ Nhớ ai bằng gái còn son nhớ chồng?”; “Chờ mong như suốt đêm
qua/ Chàng ơi! Một tháng là ba mươi ngày”.
Ở truyện tỳ bà, không hiếm những
đoạn vừa có cái mộc mạc, dân dã của ca dao, vừa có cái chau chuốt, sang trọng của
văn chương truyện Kiều, như đoạn Nguyễn Bính tả tiếng đàn của Ngũ Nương,
mà chàng nho sinh họ Thái ngang qua xóm Hiền lương trộm nghe được:“Tiếng đâu
thắm ngọc tươi hoa/ Tiếng đâu nắng xế, trăng tà, mưa khuya/ Tiếng đâu chắp nối
chia lìa/ Ngựa lên ải quạnh, chim về rừng xa/ Tiếng đâu, ôi! Tiếng tỳ bà/ Dừng
chân Chung Tử để mà vấn vương… Đàn không là rượu mà say/ Đàn không cay đắng mà cay
đắng lòng”.
Đây là đoạn tả tâm trạng dùng dằng đi thì cũng dở, ở không xong
của Thái sinh khi bị bóng dáng người đẹp Ngũ Nương hớp mất hồn:“Nhà
ai bặt tiếng tỳ bà/ Trong vườn thấp thoáng bóng hoa: bóng nguời/ Bóng người?
không, bóng hoa tươi/ Bóng hoa? không, cả bóng người bóng hoa/ Liễu điều thua vẻ
thướt tha/ Đây là đâu? Phải đây là Đào Nguyên?/ Cõi trần mà có người tiên/ Nõn
nà như huệ, dịu hiền như lan/... Ngàn thu sóng vỗ vào bờ/ Ngàn thu tài tử vẫn
chờ giai nhân”. Còn đây là tiếng
đàn tỳ bà của Ngũ Nương chiều lòng chàng si họ Thái: “Một đàn năm ngón tay
tiên/ Một đàn chim mộng triền miên bay về/ Đàn như tỉnh, đàn như mê/ Đàn
se vời vợi, đàn về đăm đăm/ Tri âm đàn gọi tri âm/ Đàn ngời ánh ngọc, đàn ngâm
giọng vàng/ Phải đây là lúc hợp hoan?/ Một bàn tay bốn dây đàn nở hoa/ Ngổn
ngang nhưng vẫn khoan hoà/ Người nghe lẳng lặng để mà đắm say”. Điệu đàn của
giai nhân họ Triệu, nửa có cái hồn nhiên, dân dã của tay đàn Thạch Sanh, nửa có
cái chau chuốt, kiêu sang của ngón nghề Thúy Kiều.
Nguyễn
Du, người được xem là táo bạo nhất trong số các nhà nho-thi sĩ đương thời, đã để
Kiều khỏa thân một lần duy nhất, mà cũng chỉ ở mức lấp ló khêu gợi của bút pháp
“tượng trưng”, ước lệ, vốn là thi pháp đặc trưng
của văn học trung đại, trong diễn tả sex: “Rõ ràng trong ngọc trắng
ngà/ Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên”. Cái đêm Mã Giám Sinh “phá trinh”
Kiều, ông cũng vận dụng thủ pháp ẩn dụ, vừa đủ để người đọc hình dung ra cái sự
chua xót, bẽ bàng của “Tiếc thay một đóa trà my/ Con ong đã tỏ đường đi lối
về/ Một cơn mưa gió nặng nề/ Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến hương”.
Ở truyện tỳ bà, nhà thơ lãng mạn Nguyễn Bính đã bứt
thoát khỏi những ràng buộc của quy phạm cổ điển, mạnh dạn pha trộn giữa ước lệ
và tả thực trong miêu tả sự ân ái. Bằng bút pháp kết hợp thực ảo này, sex
được nhìn cận cảnh hơn, được đẩy lên mức cao hơn mà vẫn thỏa mãn được mĩ cảm.
Để
tránh sự dung tục của cảnh lõa thể, Nguyễn Du đã thu xếp để Kiều thấp thoáng
sau tấm màn the (một thứ “khăn voan” của Á-đông) và còn tẩm ướp nàng bằng thứ
hương hoa quý phái của “Buồng the được buổi thong dong/ Thang lan rủ bức trướng
hồng tẩm hoa”. Đêm động phòng giữa “tài tử
làng”, là Thái sinh và “giai nhân xóm” Ngũ Nương cũng được Nguyễn Bính “sắp đặt”
khá gợi cảm: “Bên ngoài mưa gió mùa đông/ Lò hương đã nguội sáp hồng thì
vơi/ Màn the đôi cánh buông rồi/ Chăn hương gối phấn một trời phấn hương”.
Bữa tiệc ái ân diễn ra có lớp lang theo cái sự lần mò, khám phá của của gã trai tân họ Thái lần đầu làm “chuyện ấy”
“Mắt ngà men rượu yêu đương/ Thái sinh dần rõ Ngũ nương nõn nà/ Tóc nhung viền
suốt thân ngà/ Nhuỵ hồng e ấp tinh hoa đầu mùa/ Rùng mình như nếm mơ chua/ Cái
tái tê muốn vỡ bờ hợp hoan/ Nồng sôi ý phượng tình loan/ Hỡi ơi! Bó thắt đôi
làn cánh tay/ Thèm mà nín, khát mà say/ Xốn xang nhựa mạnh tuôn đầy búp tơ…”.
Một lần nữa, sex còn được Nguyễn Bính diễn
tả trong
đêm hợp hôn giữa Thái sinh bây giờ là Trạng nguyên tân khoa cùng nàng Ngọc
Nương (con gái quan Ngưu Thái sư đương triều). Đây là sự động phòng của những kẻ
quyền quý nên nó có cái sang chảnh của“Lệnh truyền đệm trải màn buông/ Xong
rồi chín ả tìm đường lui đi/ Ngọc nương môi mọng yên chi/ Áo xiêm tuần tự biệt
ly thân ngà”. Màn ái ân diễn ra vừa có cái tham đắm mê mệt của kẻ si tình,
vừa có cái tê tái sượng sùng của kẻ biết mình lừa lọc, bạc tình. “Đường
cong, ôi! những dường cong/ Đến đong đưa, đến não nùng, đến hay/ Cao cao thôi lại
dày dày/ Trắng trong màu tuyết tròn đầy gương nga/ Thái sinh rộn rực tình hoa/ Ối
con bướm dại lân la nhuỵ đào/ Hoa xuân đêm mới nghẹn ngào/ Người đen bạc lại đắm
vào phấn son”. “… Lụa đào xé lẻ như không/ Cái son mất mát cái hồng ngổn
ngang…”; “Não người những nét đồng trinh/ Thân tơ lả tả, lửa tình xiêu xiêu/
Dâng lên như nước thuỷ triều/ Hoa nuông ý bướm, bướm chiều tình hoa…”.
Nếu không kể lối “đố tục giảng thanh” của thơ Hồ
Xuân Hương, thì hai lần Nguyễn Bính diễn tả sex ở mức “cận cảnh”, mỗi lần dài đến
hàng chục câu lục bát, kể cũng là của hiếm trong lĩnh vực truyện thơ Nôm ở xứ
ta. Những động từ “tuôn” (nhựa mạnh tuôn đầy
búp tơ, “dâng” (dâng lên như nước thuỷ triều), cùng với
“rùng mình”, “bó thắt’, “lân la”, “rộn rực” nó rõ ràng khêu gợi mùi giường
chiếu hơn cái “dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên” của cụ Nguyễn Du. Song, dù
vậy chính cái “tòa thiên nhiên” đầy bí ẩn của nàng Kiều đã là những gợi ý sát
sườn để Nguyễn Bính đi xa hơn trong việc miêu tả sex mà không bị mang tiếng là
thô thiển, dung tục.
Sau Nguyễn Du, có lẽ Nguyễn Bính
là người sử dụng hai từ “cố nhân” trong thơ nhiều hơn cả. Có hai
lần cố nhân được Nguyễn Du nhắc đến trong truyện Kiều. Ấy là “Tìm đâu cho thấy cố nhân/ Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương” và “Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng/ Tại ai há dám phụ lòng
cố nhân?”. Lần trước là
tâm trạng buồn nhớ Kiều
của Thúc Sinh, khi mẹ con họ Hoạn lập mưu bắt nàng rồi đốt nhà, hòng phi tang dấu vết. Lần sau là lời Kiều nói với Thúc
Sinh tại phiên tòa “báo ân báo oán”, mà Từ Hải đã dành riêng cho Kiều. Còn “Nọ chàng Kim đó là người ngày xưa” là câu diễn tả tâm trạng khó nói nên lời của Thúy Kiều trong
cái phút tái hồi Kim Trọng sau mười lăm năm lưu lạc. Như vậy, với Nguyễn Du hai từ “cố nhân” được sử dụng khá linh
hoạt, lúc là người tình, lúc là người cũ, người xưa.
Đến Nguyễn Bính thì cố nhân hầu như
chỉ có nghĩa là người tình cũ, mà ông đâu chỉ có một cố nhân. Mỗi cố nhân sắm
vai một nhân vật trữ tình, là cái cớ sang trọng để Nguyễn Bính cho ra đời một tập
thơ. Thậm chí ông còn dành hẳn tập “Hương cố nhân” với hai câu đề từ “Xây
bao nhiêu mộng thế mà/ Đến nay phải gọi người là cố nhân” cho nàng Mai Thơ,
hay nàng Hương - những cái tên đã được thi sĩ mã hóa. Cố nhân làm khổ
Nguyễn Bính, như chính ông thú nhận “Chao ôi ba bốn tao ân ái/ Đã đủ tan
tành một kiếp trai”. Song, cũng nhờ những cố nhân này mà Nguyễn Bính mới được
xem là “ông vua thơ tình”, bên cạnh “ông hoàng thơ tình” Xuân
Diệu. Trong truyện tỳ bà, “giai nhân” đã hóa thành “cố nhân” trong giọng
thơ ai oán: “Quên rồi chứ nhớ làm chi/ Người ta quan Trạng thiếu gì giai
nhân/…Quên rồi chứ nhớ làm chi/ Người ta quan Trạng thiết gì cố nhân!”.
Ở truyện Kiều, và thơ chữ
Hán, Nguyễn Du vận dụng dày đặc điển tích, điển cố, các từ hán-việt. Cũng phải
thôi, con nhà đại nho, thiên kinh vạn quyển, thì không “điển” mới lạ. Thậm chí,
việc “dụng điển” đã là một vấn đề thuộc về thi pháp của văn học trung đại, nó
chứng tỏ sự uyên bác của một cây bút tầm cỡ đại gia. Nguyễn Bính “con nhà nho
cũ”, cũng không ra ngoài thông lệ ấy, dù ở mức độ ít hơn. Trong số các nhà Thơ
Mới, có lẽ Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương là người dụng điển nhiều hơn cả. Chính
những chén cúc Đào Tiềm, mắt xanh Nguyễn Tịch, ẩm giả Lý Bạch, cùng với những
tuồng tích Tây Thi Trữ La, Chiêu Quân cống Hồ, mây Tần, sông Dịch… đã điểm tô
cho thơ Nguyễn Bính cái vẻ đẹp bí ẩn, sang trọng Đông phương, ít nhiều mang
tính… uyên bác. Như vậy, Nguyễn
Bính
đã làm được cái điều như hai câu thơ ông dành cho quan Trạng tân khoa trong bài
Xóm Ngự viên “Mười năm vay mượn vào kinh sử/ Đã giả xong rồi nợ bút
nghiên”. Nợ bút nghiên xem ra cũng được Nguyễn Bính xem trọng, coi ngang
như cái nợ cơm áo, nợ giang hồ.
Nguyễn Bính với tài năng thiên phú,
nhìn chung, làm thơ một cách hồn nhiên và bản năng. Vậy mà khi cần, ông cũng dụng
công “chơi chữ”, nắn nót không thua kém gì bậc tiền nhân, làm vang bóng lại một
thời xưa, ví như các câu: “Sớm Đào, trưa Lý, đêm Hồng
phấn/ Tuyết Hạnh, sương Quỳnh, máu Đỗ quyên”; “Gót
sen bước nhẹ lầu tôn nữ/ Ngựa bạch buông chùng áo trạng nguyên”;“Đường
hương thao thức lòng quân tử/ Vó
ngựa quen rồi ngõ ái ân”; “Bá Nha thuở
trước còn Chung Tử/ Kim Trọng ngày nay hết Thuý Kiều”; “Sông lạnh thấy đâu người gọi gió/ Trăng tà tìm mãi kẻ mài
gươm”; “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ/ Cây nêu, tràng pháo, bánh
chưng xanh”...
Đọc Nguyễn Bính, thấy khi thì ông đạo
mạo trong trang phục “áo the, khăn xếp” như một thâm nho mà “Van em em hãy
giữ nguyên quê mùa”, có lúc ông sắm vai kẻ giang hồ ngậm ngùi bên chén rượu tha hương “Sầu lên mái quán mưa
tong tả/ Chén ứa men lành lạnh ngón tay”,
lại có khi ông trong vai một khách làng chơi thứ thiệt mục
kích cảnh “Lửa đèn chong cái giăng hoa/ Mõ đêm đục đục canh gà te te”, lại
có khi ông độc miệng như một bà già cay nghiệt “Thôi cha cầu chúc cho con
gái/ Mắt chớ lưu cầu, môi chớ son/ Ngu đần xấu xí hay tàn tật/ Yên phận chồng
con, yên phận con”. Có nhiều Nguyễn Bính trong một Nguyễn Bính, cũng như
trước đó đã từng có nhiều Nguyễn Du trong một Nguyễn Du.
Cũng phải đồng ý
với nhau rằng, thơ Nguyễn Bính không phải bài nào cũng hay, lục bát Nguyễn Bính
bài nào cũng toàn bích. Vì bận kiếm sống, vì lòng lẻo tay nghề, ông cũng không
thiếu những bài làm hàng ở hạng tầm tầm. Tuy nhiên, ngay ở những
bài tầm tầm ấy vẫn có những câu hay, gây ấn tượng, còn ở những bài
thành công, Nguyễn Bính tuyệt diệu.“Tầm vóc thật, tầm vóc mỗi câu thơ Nguyền Bính”, ấy là lời khen tặng không hề quá lên của
Tô Hoài.
Lục bát Nguyễn Bính cũng là ví dụ
thuyết phục cho sự tiếp nối giữa truyền thống và cách tân, giữa kế thừa và sáng
tạo, giữa dân gian và bác học. Cảm hứng lãng mạn, cái “tôi” trữ tình tài hoa của
lục bát Nguyễn Bính thể hiện rõ ở những câu thơ mang vẻ đẹp pha trộn giữa thực
và ảo:“Cành dâu cao, lá dâu cao/ Lênh đênh bóng bướm trôi vào mắt em”; “Hôm
qua mưa gió đầy trời/ Trong hồn chị có một người đi qua”. Còn nhiều nhiều
những câu thơ mang vẻ đẹp chập chờn, đứt nối, thực ảo như vậy: “Giếng thơi
mưa ngập nước tràn/ Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều”; “Đèo cao cho suối ngập ngừng/ Nắng thoai thoải nắng,
chiều lưng lửng chiều”; “Quê tôi có gió bốn mùa/ Có giăng giữa tháng, có chùa
quanh năm”, “Anh đi đó anh về đâu/ Cánh buồm nâu cánh buồm nâu cánh buồm”…
Lục bát Nguyễn Bính còn có những
bài, những câu nằm giữa trữ tình và triết lý, cái này ông cũng học Nguyễn Du
song biến tấu theo kiểu của ông. Truyện Kiều mở đầu bằng sự gét nhau giữa chữ
“tài” chữ “mệnh”, kết lại bằng sự tương khắc của chữ “tài” chữ “tai”, có sự chi
phối của chữ “nghiệp” và dừng lại ở chữ “tâm”. Chữ “tâm”, một phạm trù của nhà
Phật, giữ vị trí trung tâm triết lý của Truyện Kiều. Nguyễn Bính với trình độ học
vấn có hạn, lại ở một thời đại khác nên ông không dại gì lại luận đề như vậy.
Đóng vai như một “hiền giả” phương Đông, ông chủ ý để cho những suy lý, luận
bàn của mình hòa vào cảnh, lẫn vào tình. Đó là thứ triết lý của bình dân, triết
lý đời thường. Có khá nhiều câu thơ của Nguyễn Bính có giá trị như một nhận định, một
chiêm nghiệm, một triết lý sống
“Gió
mưa là bệnh của giời/ Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”; “Cũng là thôi cũng là đành/ Sang
ngang lỡ bước một mình chị đâu”;
“Sống là sống để mà đi/ Con tàu bạn hữu chuyến xe nhân tình”; “Đời có còn gì tươi đẹp nữa!/ Buồn thì đến khóc, chết
thì chôn!”; “Làm người có thuỷ có chung/ Cúi không thẹn đất, ngửa không
thẹn trời/ Sống đâu không thẹn với đời/ Chết đi không thẹn với người cõi âm”… Nếu
thơ Nguyễn Bính có triết lý, thì có thể tóm gọn lại trong một chữ “tình”.
Tám mươi năm trước, Hoài Thanh, người
có con mắt xanh với thơ Nguyễn Bính nhưng đã không khỏi bất công khi hạ bút
viết rằng “Đáng
trách chăng là giữa những bài giống hệt ca dao người bỗng chen vào một đôi lời
quá mới. Ta thấy khó chịu như khi vào một ngôi chùa có những ngọn đèn điện trên
bàn thờ. Cái lối gặp gỡ ấy của hai thời đại rất dễ trở nên lố lăng”. Thời nay, ngọn đèn điện lung linh, đa màu
thay cho ngọn nến tù mù trên bàn thờ Phật là chuyện bình thường, chẳng những không “lố lăng”, mà còn có vẻ bắt mắt nữa. Như vậy,
bằng tài năng và bản lĩnh của mình ở phần thành công nhất, đặc sắc nhất, thơ Nguyễn Bính chẳng những là ví dụ sinh động của sự
chung sống ổn thỏa giữa truyền thống và cách tân, giữa dân tộc và hiện đại, mà
còn đem lại một hiệu quả sáng tạo đặc sắc, độc đáo, kiểu “một mình một ngựa”,
“một mình một cõi”.
Nguyễn Bính hâm mộ Nguyễn Du không
phải là chuyện tình cờ. Ông chọn Nguyễn Du tôn thờ làm người thầy tinh thần của
mình, vì ông tìm thấy ở Nguyễn Du nhiều sự đồng điệu, trong đó có cái cảm thức
cô đơn của: “Cổ mạch
hàn phong cộng nhất nhân” (Trên lối cũ, gió lạnh dồn cả vào
một người). Thơ Nguyễn Bính, cũng như Truyện Kiều
Nguyễn Du, đã, đang và sẽ còn là món ăn tinh thần lâu dài của người Việt. Nó có
phổ nghệ thuật rất rộng, thỏa mãn khẩu vị của số đông công chúng, từ các bậc
thức giả khó tính nơi đô thành đến người bình dân nơi thôn dã, từ người dân
trong nước đến người Việt xa xứ.
Các ông trong số không nhiều những thi nhân thuộc về người của nhiều
thời. Nhân dân chọn các ông, biết ơn các ông, vì các ông đã chọn đi với nhân
quần, buồn vui sướng khổ cùng nhân quần, đã lấy cảm hứng nghệ thuật chủ đạo của
mình từ nguồn mạch lục bát, một thể
thơ dân tộc, vừa bác học vừa dân dã. Nhiều người ảnh hưởng từ lục bát Nguyễn Du không riêng
Nguyễn Bính, song nhìn lại, thì công bằng mà nói, Nguyễn Bính rõ ràng là người
xứng đáng được Nguyễn Bính “trao y bát” hơn cả.
Cố
viên Hải Thanh, những ngày mạnh Thu, Nhâm Dần, 2022
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét