Sinh hoạt vật chất và tinh thần thời sinh viên Việt Bắc
Vũ Nho
Chúng tôi làm
nhà, đào hầm hào, trồng rau xanh. Củi cho nhà bếp thì vào rừng tự kiếm. Chặt nứa,
đan tranh nứa lợp nhà. Chúng tôi làm tuốt. Nhà ăn có bàn bằng nứa ghép, có ghế
là thân cây mai. Nhà ở, hội trường, nhà ăn,
lớp học,…chúng tôi tự làm lấy. Chúng tôi chơi bóng chuyền. Đội bóng của khoa chủ
yếu là khóa tôi chơi xuất sắc. Chúng tôi diễn kịch, chuyển thể các tác phẩm của
nhà văn. Đội kịch của khối tôi nổi tiếng toàn trường. Các bạn diễn vở “Bắc Sơn”
của Nguyễn Huy Tưởng cho cả trường xem ở Trung tâm hiệu bộ. Tạ Duyên, Tương Như,
Thanh Lâm, Trần Trung, Vi Đoàn,…diễn hay đến nỗi bao người khóc. ( Sau này khi
xem đoàn kịch chuyên nghiệp diễn, tôi có cảm giác không hay, không xúc động bằng
các bạn mình…Lạ vậy!). Chúng tôi diễn kịch Kiều. Bạn Lễ đóng vai Từ Hải, sau mất
sớm vì bệnh. Minh Lộc đóng vai Kiều, sau cuộc sống cũng lận đận, không như ý. Cả bọn nói
rằng kịch “vận” vào người…Chuyển thể ‘Tắt đèn” ban kịch mượn cháu Phương Thái (
Din) con thầy Phạm Luận đóng cái Tí. Các
diễn viên nghiệp dư mà lấy của người xem nhiều nước mắt thương cảm… Về tốp ca nam của chúng tôi phải nói là nổi danh toàn
trường với các bài “ Con cua đá”, “ Bài
ca người lái xe”… Còn nổi hơn nữa vì các chàng trai diện cà vạt giấy lên biểu
diễn. Số là lúc đó cà vạt là của hiếm. Các
bạn chúng tôi chỉ mượn được 2 chiếc của thầy Phan Thanh Lương và thầy Nguyễn Đức
Long. Còn lại là giấy màu tím và màu vàng, màu đen cắt ra và dán vào sơ mi. Có
lẽ cũng là độc nhất vô nhị ở Việt Nam! Chúng tôi lại còn lập một dàn nhạc đàng
hoàng. Có 1 công tơ bát, hai xenlo, ba vi ô lông, một ác cooc đê ông, hai ghi ta, một măng đô lin, hai sáo trúc. Dàn nhạc trông
rất “hoành tráng”, nhưng chỉ chơi 2 bài là “Giải phóng miền Nam” và một bài do
Hoàng Đoạn lớp A sáng tác. Dù mọi người cười rằng khi ca khúc của Hoàng Đoạn
vang lên, mọi người ngả mũ chào vì gặp những Đỗ Nhuận, Hoàng Vân, Văn Kí ở
trong đó, nhưng chúng tôi tự hào vì dàn nhạc tấu nhạc của chính nhạc trưởng Hoàng
Đoạn!
Tôi kể thêm đôi điều về chuyện ăn uống.
Tiêu chuẩn lương
thực 15 cân gạo một tháng với thanh niên đang sức ăn, sức lớn thì không đủ. Nhưng
chúng tôi có may mắn là ở với dân. Sắn rất rẻ. Hình như chỉ 2 đến 3 hào một cân.
Học bổng của chúng tôi là 22 đồng. Nộp nhà ăn 15 đồng. Còn 7 đồng để cắt tóc, mua xà phòng, thuốc đánh răng. Đói
thì luộc sắn, nướng sắn. Cũng đàng hoàng lắm. Nhưng có lần mấy tướng ở tổ 1 đi
mót sắn ở nương bỏ hoang. Củ sắn mấy năm không dỡ nên rất to. Nhưng cũng không
tươi ngon như sắn mua. Chẳng biết luộc và ăn kiểu nào, hai ba tay bị say sắn…lử
lả. May mà có sẵn đường hòa ra uống nên cũng…qua. Sau đó cạch không ham sắn trên
nương bỏ hoang nữa.
Khi đó có chuyện ăn độn bằng bột mì. Các
chị cấp dưỡng đầu tiên nhào bột, nặn thành bánh rồi cho vào…luộc. Cái bánh rất
rắn. Cứ y như cục gạch nhỏ. Hồi đó chưa có bột nở, cũng chưa có “công nghệ” cán
thành mì sợi. Nhưng cũng có một cải tiến là bột mì nhào, nặn thành bánh, nhưng
không luộc, mà đặt lên vỉ đan trong chảo lớn và …hấp.
Chúng tôi trồng rau ven suối. Rau cải
rất tốt. Rau chúng tôi bán cho nhà bếp để cải thiện. Cũng có khi tự kiếm thêm măng rừng về nấu ăn thêm. Có một dạo
tan học , hầu như cả lớp lên đồi gần khoa Sinh để kiếm rau tàu bay. Không biết
tay nào mách. Nhưng rau tàu bay về nấu rồi cùng nhau “xì xụp” cũng hay hay. Vừa
đỡ đói, vừa có chất xanh và cũng …lành!
Có một dạo độn…bằng ngô răng ngựa. hạt
ngô rất to và khá khô. Các chị nuôi phải “bung” rất lâu, cho thêm tí nước vôi để
cho ngô mềm. Có tay tức cảnh ra vế đối : “Ăn ngô BUNG nặng BỤNG”. Cũng giống như
kiểu “Chỉ cu hỏi củ chi”. Cái hóc hiểm là có chuyện đánh vần với dấu NẶNG và dấu
HỎI vì vậy mà hầu nhưng không thể đối chỉnh.
Cũng phải nói thêm rằng đang ở nhà quê
nhưng thiếu lương thực, được ăn tiêu chuẩn sinh viên, lại có măng, sắn ăn thêm
nên hầu như chúng tôi cảm thấy no, không bị đói.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét