LƯƠNG CHÂU TỪ - RƯỢU VÀ NỖI SẦU CHINH CHIẾN
Phạm Đức Nhì
“Lương Châu” Và
“Từ”
Lương Châu nay
thuộc tỉnh Cam Túc, giữa Lan Châu và Vũ Uy, trước đây là nơi hàng bao thế kỷ người Hồ và người Hán đánh nhau. Lương Châu Từ là một điệu hát cổ nói về chuyện trận mạc biên ải. Những điệu hát cổ như: Thượng Chi Hồi, Chiến Thành Nam, Thương Tiến Tửu, Quân Mã Hoàng, Viễn Như Kỳ, Hoàng Tước Hành, Lạc Mai Hoa, v.v... được các thi nhân thời trước lấy làm đầu đề để sáng tác. (thivien.net/Vương-Hàn/Lương-Châu-từ-kỳ-1/poem)
(1)
Từ, nói chung, là một khúc
nhạc. Có rất nhiều điệu Từ. Mỗi điệu có một từ phổ, tác
giả phải tìm những chữ thích hợp về thanh âm với công
thức từ phổ để điền vào.
Sáng tác Từ còn gọi là Điền Từ.
Như vậy, có
thể nói Lương Châu Từ là một bài
thơ thất ngôn tứ tuyệt, luật bằng, vần bằng được tác
giả khéo léo điền vào ăn khớp với một từ phổ của xứ Lương
Châu. Đo đó, Lương Châu Từ còn được gọi là
Khúc Hát Lương Châu.
Với thơ thất ngôn
tứ tuyệt thì “nhất tam
ngũ bất luận, nhị tứ lục phân
minh”. Tuy nhiên, khi điền từ thì “nhất tam
ngũ” nhiều khi cũng không được “bất luận” mà
phải “uốn mình” cho hợp với thanh
âm của công
thức từ phổ.
Đây là bài
bình thơ nên tôi chỉ bàn đến khía
cạnh văn chương – nghĩa là sẽ đối xử với Lương Châu
Từ như một bài
thơ. Còn lãnh vực âm nhạc xin mời các
cao nhân khác.
LƯƠNG CHÂU TỪ
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
VUONG HÀN (1)
2/ Ba Cách Hiểu – Ba Bản Dịch
Câu thứ hai của bài thơ
Dục ẩm, tỳ bà mã thượng thôi
có 3 cách hiểu.
1/ Muốn uống (mà chưa uống) thì tiếng nhạc của nhóm nhạc công “cỡi ngựa chơi đàn tỳ bà” đã vang lên thúc
giục, khuyên mời (uống rượu). Ở đây “tỳ bà mã thượng” được hiểu là nhóm nhạc công chuyên chơi đàn tỳ bà trên lưng ngựa.
2/ Muốn uống (mà chưa uống) thì ngay lập tức tiếng đàn tỳ bà đã vang lên thúc
giục, khuyên mời (uống rượu). Ở đây “mã thượng” được hiểu là ngay lập tức, tức thì.
3/ Muốn uống nhưng tiếng đàn tỳ bà đã thúc giục lên ngựa ra đi.
Do câu thứ hai có 3
cách hiểu nên bài thơ có 3 bản dịch khác nhau.
1/
Rượu bồ đào rót vào chén dạ quang, mới dợm uống thì tiếng tỳ bà trên lưng ngựa đã giục giã khuyên mời. Đừng cười ta say vùi năm
lăn trên bãi cát, anh nhé, vì xưa nay chinh chiến đã mấy ai sống sót mà về. (Khúc Hát Lương Châu, Chin Shun-Shin, Nguyễn Nam Trân dịch) (2)
2/
Rượu bồ đào
cùng với chén lưu ly
Mới dợm uống thì
đàn tỳ bà đã ngay lập tức giục giã
khuyên mời
Nếu có
say nằm lăn trên bãi cát xin bạn chớ cười (sa
trường là bãi cát, nơi tập họp quân,
chờ lên
đường)
Bởi xưa nay
chinh chiến mấy ai trở về.
(Tự dịch)
3/
Rượu bồ đào
cùng với chén lưu ly
Muốn uống nhưng tỳ bà đã giục lên ngựa
Say khướt nằm ở sa trường, bác chớ cười (sa trường là chiến trường)
Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về.
Muốn uống nhưng tỳ bà đã giục lên ngựa
Say khướt nằm ở sa trường, bác chớ cười (sa trường là chiến trường)
Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về.
(Wikisource)
(3)
Tác Giả Và Bối Cảnh Của Bài Thơ
Tác giả của Lương Châu Từ là Vương Hàn (687 – 735) - tự Tử Vũ, người đất Tấn Dương (nay
thuộc thành phố Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây).
Thi đỗ Tiến Sĩ, đã từng được Tể Tướng Trương Thuyết mời về kinh
đô làm Bí Thư Chính Tự, lo việc thư tịch.
Ông vốn con
nhà giàu có, tính tình hào phóng phong lưu, hơi tự cao;
khi uống rượu vui chơi thường sánh
mình với các bậc vương hầu nên bị nhiều người đố kỵ. Năm
726, Trương Thuyết thất sủng phải giáng làm Trưởng Sử Nhữ Châu,
Vương Hàn cũng bị đổi ra
Tiên Châu (nay thuộc huyện Tây Phong tỉnh Liêu
Ninh) làm chức nhàn quan hữu danh vô thực
là Biệt giá. Sau ông lại bị biếm ra Đạo Châu
và mất ở đấy.
Bài thơ là cảnh tiễn quân lên đường ra trấn nhậm (và chiến đấu) nơi miền biên ải. Quân thì đã tập họp đông đủ chờ lệnh. Lời thơ là tâm trạng của vị tướng chỉ huy đang nhận chén rượu tiễn đưa kèm những lời dặn dò, khích lệ của cấp trên (có thể là vua hoặc quan chức lớn hơn).
Vì thế, nếu cho rằng “mới dợm uống thì đàn tỳ bà trên lưng ngựa đã giục giã khuyên mời” (cách hiểu 1) hoặc “mới dợm uống thì ngay lập tức tiếng đàn tỳ bà đã vang lên giục giã khuyên mời (uống rượu)” (cách hiểu 2) và sau đó “nếu có say vùi nằm lăn trên bãi cát (nơi quân lính tập họp) xin bạn đừng cười bởi xưa nay chinh chiến mấy ai trở về” thì rõ ràng không hợp với bối cảnh của bài thơ.
Có mấy điểm hơi khó chấp nhận:
1/ Rượu bồ đào hảo hạng và chén ngọc lưu ly là những món quý thời bấy giờ nên khó có đủ để “mời’ cả đoàn quân uống đến mức “say vùi nằm lăn trên bãi cát”.
2/ Chuẩn bị xuất quân mà lại chuốc rượu cho cả tướng lẫn binh sĩ “say vùi nằm lăn trên bãi cát” thì không “thực tế” chút nào.
Tác Giả Có Phải Là Nhân Vật Chính Trong Bài Thơ?
Vương Hàn đỗ Tiến Sĩ, đã từng làm Bí Thư Chính Tự (chuyên về thư tịch) ở kinh đô nên không phải là võ quan - nhân vật chính (speaker) trong bài Lương Châu Từ. Có lẽ từng được chứng kiến nhiều buổi lễ tiễn quân lên đường, trong đó có một số vị tướng ông quen biết đã ra đi không về, nên sự thương cảm chất chứa trong lòng thôi thúc ông viết bài thơ.
Vốn con nhà
giàu có, tính tình hào phóng, hay mở tiệc rượu vui chơi nên bài thơ của ông là lời kêu gọi sự thông cảm, bao dung cho những thái độ, hành động “hơi khó coi” của những người phải “bỏ dở cuộc vui” ở hậu phương để lên đường chinh chiến nơi miền biên ải, sống chết khó lường.
“Lương Châu Từ” Là Bài Thơ Về Rượu Hay Về Nỗi Sầu Chinh Chiến?
Lương Châu Từ chỉ có 4 câu, 28 chữ nhưng nếu đọc lên hoặc ngâm nga thì có đến 16 chữ thấm đẫm hơi men, thơm nồng mùi rượu (câu 1, câu 3 và 2 chữ “Dục ẩm” của câu 2), 12 chữ còn lại (5 chữ sau của câu 2 và cả câu 4) bao phủ một không khí ly biệt, chết chóc, thê lương của chiến tranh. Cả bài thơ là một nỗi buồn sầu bao la, sâu lắng.
Câu hỏi được đặt ra ở đây là “Ý chính của bài thơ là gì? Rượu hay Chiến Tranh?” Tác giả mượn rượu để nói về chiến tranh hay mượn chiến tranh để nói về rượu?
Trong Say Đi Em, Vũ Hoàng Chương mượn rượu để nói đến nỗi tủi nhục, uất ức, buồn sầu (nói chung là thành sầu) của mình trước cảnh quê hương tan nát dưới gót giầy xâm lược của thực dân Pháp.
Nguyễn Bá Trác
qua Hồ Trường mượn rượu để bày tỏ tâm trạng bất đắc chí của một sĩ phu yêu nước.
Chúng ta thử cùng xem cách dàn ý của Lương Châu Từ: (Tôi xin được dịch sát và thay đổi thứ tự các ý nhỏ để độc giả dễ phân biệt đâu là ý chính của tác giả và đâu là những ý phụ tác giả mượn để diễn đạt ý chính đó).
Rượu ngon chưa kịp uống (chưa được say) đã có tiếng tỳ bà giục lên ngựa (ra đi) mà chinh chiến thì xưa nay có mấy ai (sống sót) trở về nên nếu có say khướt, nằm dài giữa chiến trường xin bạn thông cảm, đừng chê cười.
Phần chữ in đậm là ý chính và phần chữ nghiêng là những ý mượn.
Như vậy, khác với Say Đi Em
và Hồ Trường, Lương Châu Từ mượn chuyện chén rượu ngon chưa kịp uống và sự sống chết bất thường của chinh nhân rồi dùng thủ pháp “xạo nghệ thuật” biện minh và kêu gọi sự bao dung, thông cảm cho việc say khướt đến mức lố bịch ngoài chiến trường.
Cũng xin nói thêm là vào cuộc chinh chiến không phải lúc nào chinh nhân cũng cầm guơm giáo lăn xả vào đâm chém, sống chết với quân địch. Cũng có nhiều khoảng thới gian giữa những trận đánh - có khi rất dài - tướng tá, binh sĩ được thảnh thơi, dưỡng sức, vui chơi. Đó là lúc tìm những cuộc vui nho nhỏ cho qua ngày tháng và cũng có
khi “say khướt, nằm dài giữa chiến trường” như đã nói ở trên.
Một điểm đặc biệt trong Lương Châu Từ là không biết vô tình hay cố ý Vương Hàn đã cho “ý mượn” được tiến lên vị trí ngang hàng với ý chính.
1/ Bằng câu “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” ông đã thổi phồng quá lố con số những người ra đi không về đến nỗi nhà phê bình Thu Tứ phải lên tiếng:
“Ờ, mà đi thường cũng nhiều về chớ đâu tới nỗi hiếm. Trận nào đây mà người dự bi quan thế?” (Lương Châu Từ Của Vương Hàn, Thu Tứ, gocnhin.net) (4)
2/ Câu “Cổ lai chinh
chiến kỷ nhân hồi” thuộc phần “ý mượn” nhưng lại được đặt ở cuối bài làm nhiệm vụ của câu kết nên lưu lại ấn tượng mạnh hơn.
Chính vì thế tuy phần nói về chiến tranh chỉ là phụ, là “ý mượn”, nhưng không khí ly biệt, chết chóc của chiến tranh
trong bài thơ có vẻ như không thua kém hình ảnh “túy ngọa sa trường” tý nào – dù hình ảnh này đã được thủ pháp “xạo nghệ thuật” tô vẽ thêm rất nhiều.
Phương cách có hơi bá đạo (thổi phồng quá lố) nhưng với độc giả của Lương Châu Từ lại đạt hiệu quả cao. Họ rất dễ thông cảm với hành động “tìm những cuộc vui nho nhỏ” ngoài chiến trường dù lắm khi đi đến chỗ “khó coi” như “túy ngọa sa trường”.
Sau đây là vài khuyết điểm của bài thơ:
Thổi Phồng Quá Lố.
Như đã nói ở trên, “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” là câu thơ hơi “xa sự thật”. Tuy nó đóng góp rất nhiều cho việc vẽ lên bức tranh chết chóc, thê lương một cách đáng sợ của chiến tranh, giúp thuyết phục đám đông độc giả dễ tính thông cảm, chấp nhận hình ảnh “túy ngọa sa trường” của chinh nhân. Nhưng nó cũng để lại một vết ố không nhỏ trong bài thơ dưới mắt những người làm công việc thẩm định giá trị nghệ thuật thơ ca.
Mời độc giả thử để ý câu thơ:
Tửu phùng tri
kỷ thiên bôi
thiểu
Câu thơ này có 2 phần. “Tửu phùng tri kỷ” là phần “gốc”, là chỗ dựa, là cái cớ để tác giả vin vào đó mà “xạo tới bến”, “nói một tấc đến giời”. “Thiên bôi thiểu” là phần “ngọn”, là phần “nói một tấc đến giời” đó. Do có “phần gốc” hợp lý, vững chãi làm chỗ dựa nên phần ngọn dù cường điệu hết cỡ, dù “xạo tới bến” vẫn rất dễ được chấp nhận. Uống rượu gặp tri kỷ thì nghìn chén cũng là ít. “Nghìn chén cũng là ít” là quá xa sự thực, quá xạo, quá vô lý. Nhưng cái quá xạo, quá vô lý ấy đã “tạo sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời thường bằng cái phi lý mà có lý trong nghệ thuật” nên đã làm mới câu thơ và được hoan nghênh nhiệt liệt. Đó
là biện pháp tu từ có tên “lối nói
thậm xưng” mà trong một số bài viết tôi gọi là “xạo nghệ thuật”.
Cũng vì sự quá lố của câu “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” mà thủ pháp “xạo nghệ thuật” trong Lương Châu Từ đã bị giảm hiệu quả khá nhiều.
Cái Kẹt Của Thơ Tứ Tuyệt
Thử tưởng tượng đang
xem một pha đá phạt trong bóng đá. Điểm đá phạt ở ngoài
nhưng ngay sát vòng 16 mét 50 trước khung thành đối phương. Cầu thủ được huấn luyện viên
chỉ định đá phạt cầm bóng
đặt vào vị trí. Những cầu thủ khác của cả hai đội cũng
tùy nhiệm vụ của mình
mà dàn quân. Ai cũng sẵn sàng để nếu bóng
bật ra là tìm cách đưa bóng vào khung thành (nếu là đội công) hoặc cản phá
(nếu là đội thủ). Thế rồi tiếng còi
của trọng tài vang lên, cầu thủ đá phạt - bằng kỹ thuật và
kinh nghiệm của riêng mình – sút bóng qua
hàng rào người, vào lưới. Tiếng reo
hò, vỗ tay của khán giả vang dậy cầu trường.
Nhưng nếu bóng đá mà chỉ toàn những cú
đá phạt như vậy thì
chán chết. Khán giả sẽ không
thấy được tài sắp xếp thế trận của huấn luyện viên,
không thấy được khả năng
chận bóng, đi bóng, lừa bóng, sút bóng “sống”, cản phá
bóng, khả năng phối hợp nhịp nhàng
với đồng đội khi lên công, lúc về thủ của cầu thủ. Khán
giả sẽ không có những giây
phút đứng tim khi đội bóng cao hứng chơi xuất thần, có
những đường chuyền “đẹp như mơ”, những cú
sút “không thể tin là có thực” đưa bóng
vào cầu môn đối phương. Tất cả đã đưa bóng
đá lên ngôi “thể thao
vua”, thu hút sự yêu mến đến cuồng nhiệt của hảng tỷ người trên
thế giới.
Cũng vậy, một bài
thơ ngắn cỡ tứ tuyệt không
đủ chữ để thi sĩ
trổ tài điều binh khiển tướng, sắp xếp đội hình
cho một trận đánh có tầm vóc.
Đề tài thường rộng, chung chung, không đủ không gian và thời gian
đi vào tâm tình riêng tư của nhân vật để cảm xúc
có cơ hội dâng lên cao ngất.
Trong Lương Châu
Từ, bóng dáng của lý trí vẫn còn rất rõ
nét trong từng chữ, từng câu
thơ. Tứ thơ không
đủ dài để độc giả thấy được sự “vận động” của ngôn
ngữ, để cảm xúc
có sóng sau dồn sóng trước, lớn mạnh đến mức đẩy lý
trí đi chỗ khác chơi, tạo được cao
trào cho hồn thơ xuất hiện.
Hai Chữ “Dục Ẩm” Vừa Dở Lại Vừa Hay Tuyệt
Một điểm hơi xa thực tế nữa đến từ hai chữ “Dục ẩm” – trong ngữ cảnh của bài thơ có nghĩa là “muốn uống”, “toan uống”, “chưa kịp uống”. Như đã nói ở trên, bài thơ là khung cảnh tiễn quân lên đường ra trấn nhậm (và chiến đấu) nơi vùng biên ải. Quân thì đã tề tựu đông đủ; tướng thì đang
nhận chén rượu tiễn đưa kèm những lời dặn dò của vua hoặc một quan chức lớn hơn.
Nghe dặn dò xong, hớp vội chén rượu, vị tướng bước ra cổng thì đàn tỳ bà trỗi lên thúc giục ông lên ngựa – và cũng thúc giục cả đoàn quân - lên đường. Dốc cạn chén rượu chưa hết một giây nên chuyện “chưa kịp uống” là rất khó xảy ra. Thêm vào đó, cái cảnh bỏ lại chén
rượu cấp trên ban thưởng để lên ngựa dẫn quân
ra trận là rất ‘khó coi”. Vội vã như thế không
phải lối; vừa bất kính
với cấp trên, vừa không
hợp với cung
cách ứng xử của một vị tướng.
Hơn nữa, người chỉ huy ban nhạc đàn tỳ bà đâu phải “muốn chơi lúc nào cũng được” mà phải trổi nhạc đúng thời điểm đã được căn dặn trước (lúc vị tướng uống rượu xong).
Thấy ra điểm bất hợp lý này nên một nhà thơ, nhà văn, nhà sử học người Anh ông Pierre Stephen Robert
Payne (1911-1983), đã dịch bài thơ ra tiếng Anh như sau:
The Song of Diangchow
The beautiful grape wine, the night-glittering cups
Drinking or not drinking, the horns summon you to mount.
Do not laugh if I am drunk on the sandy battlefield
From ancient times, how many warriors ever returned!
The beautiful grape wine, the night-glittering cups
Drinking or not drinking, the horns summon you to mount.
Do not laugh if I am drunk on the sandy battlefield
From ancient times, how many warriors ever returned!
(Lương Châu Từ, Lý Văn Quý) (5)
trong đó câu
thứ 2
“Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi” được dịch là “Uống hay không uống, tù và đã giục lên ngựa”.
Tuy nhiên, “Dục ẩm” cũng
có cái hay của nó. “Muốn uống”,
“chưa kịp uống” nếu hiểu rộng ra
còn có nghĩa là “cuộc vui chưa trọn”. Mà
cuộc vui trên đời đâu phải chỉ có rượu. “Cuộc vui
chưa trọn” còn có thể là ái
ân phu thê đứt đoạn, tình yêu lứa đôi dở dang, ơn cha chưa trả, nghĩa mẹ chưa đền, những dự tính, ước mơ chưa thực hiện … và
còn muôn ngàn thứ khác nữa.
Lên đường
chinh chiến không phải chỉ đem mạng sống của mình
“đùa” với giáo gươm, súng đạn mà
còn là chấp nhận nhiều mất mát
hy sinh khác; đó là chấp nhận giã từ biết bao “cuộc vui
chưa trọn” của đời người.
Bài thơ Màu
Tím Hoa Sim của Hữu Loan có nói gì đến chết chóc
ngoài chiến trường đâu. Anh chồng chiến binh
mới cưới vợ và 3
người anh
của vợ cũng đều là bộ đội, vẫn sống nhăn
trong khi cô vợ ở hậu phương yên
bình thì lại … chết đuối trong
lúc đi giặt quần áo ở bờ sông.
(Lời Tự Thuật Của Hữu Loan,
Tác Giả Màu Tím Hoa Sim) (6)
Tội ác của chiến tranh
trong Màu Tím Hoa Sim không phải là những cái chết của người lính
ngoài chiến trường mà là sự chia
xa, phải giã từ những “cuộc vui
chưa trọn”. Sau đây là vài chi tiết làm
quặn thắt lòng người:
1/
Ngày
hợp hôn nàng không đòi may áo cưới
Tôi
mặc đồ quân nhân
Đôi
giầy đinh bết bùn đất hành quân
Đám cưới mà cô
dâu không có thời gian (và tiền) để may áo
cưới. Chú rể mặc đồ lính,
đôi giầy vẫn còn vết bùn
chưa giặt sạch.
2/
Tôi
ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Được 2 tuần phép
nhưng phải để một tuần hâm
nóng tình xưa, “tuần sau
đó” mới kết hôn. Như vậy, cưới vợ xong,
chỉ có một tuần trăng
mật; đang mặn nồng đã
phải chia tay lên đường ra đơn vị. (6)
3/
Ba
người anh được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Đám cưới của em
gái không được về dự, rồi quan san cách trở đến mức “biết tin em gái mất trước tin em lấy chồng” thì quả là vô cùng đau xót.
Ở đây con người không
bị đổ chung vào một thúng
kiểu “cá mè một lứa” như Lương Châu
Từ mà là một cá thể có tâm
trạng và cảm xúc riêng biệt. Hữu Loan
đã đủ
tài năng và nhạy cảm để qua
Màu Tím Hoa Sim, cho độc giả thấy một khuôn
mặt khác của chiến
tranh, không sặc mùi xương máu, chết chóc
mà có vẻ rất hiền lảnh - hiền lành
nhưng đã nhẫn tâm cướp đi những thứ quý
giá nhất của con người.
Vương Hàn,
qua Lương
Châu Từ, chỉ với hai
chữ “Dục ẩm”, đã
bóng gió nói đến những “cuộc vui
chưa trọn”, những thứ quý
giá nhất đó. Có điều vì thể thơ tứ tuyệt “thiếu quân”
nên điều muốn nói không được đậm nét
và mãnh liệt như Màu Tím Hoa Sim.
Con người trong
hoàn cảnh đó có
sống cũng chỉ là cái sống sinh
học của thể xác,
còn những thứ để con người được sống như một Con
Người đã bị chiến tranh
cướp mất.
Sống như thế, đến cuối đời nhìn
lại, quãng thời gian đó chẳng khác
gì mình đã chết.
“Tử Biệt” “Sinh Ly” Trong Cuộc Nội Chiến Bắc Nam
Mới đây,
nhân ngày 30 tháng Tư (2019), tôi đọc được đoạn thơ của nhà
giáo Thái Bá Tân (qua emails):
Bộ đội Miền Bắc chết
Một triệu một trăm nghìn.
Số lính Miền Nam chết -
Hai trăm tám hai nghìn.
19 Tháng Tư, 2019
Một triệu một trăm nghìn.
Số lính Miền Nam chết -
Hai trăm tám hai nghìn.
19 Tháng Tư, 2019
(Thái Bá Tân,
30 Tháng Tư, 1975)
Tác giả không
chú thích nên tôi không biết nguồn gốc của những con
số ấy. Nhưng tôi
không tin là ông viết bừa, nói bậy. Thứ nhất, vì
uy tín của mình; thứ hai, nếu “được hỏi thăm”
mà ú ớ, không biết những con
số đó xuất xứ từ đâu
thì … kẹt lắm - cả về trách
nhiệm dân sự lẫn hình
sự.
“Một triệu một trăm
nghìn” bộ đội chết là
con số rất lớn (so với dân số Miền Bắc thời chiến
tranh) nhưng đã tương xứng với câu
thơ “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” chưa, thì
còn tùy độc giả nhận định. Có
điều tôi dám xác quyết là nỗi khổ, nỗi buồn “sinh
ly” của bộ đội và người dân
Miền Bắc so với binh
lính và người dân Miền Nam thì khác nhau một trời một vực.
Tôi có ông
anh họ ở Kiến An.
Cuối năm 1988 tôi về quê tìm đường vượt biên, gặp nhau hắn tâm sự:
Tớ vừa đến tuổi, chưa biết yêu, chưa nếm mùi đàn bà, đã phải lên đường vào Nam. Không nhớ là mấy năm sau, gặp thằng bạn cùng lớp ở rừng Quảng Đức, hỏi thăm chuyện gia đình thì nó vừa cười vừa nói “Tao có khác gì mày. Trời sinh ra cái b. của tụi mình chỉ để đái thôi”.
Chỉ một câu
nói đùa nhẹ nhàng mà làm xót xa biết bao
nhiêu cõi lòng, làm nhức nhối biết bao
nhiêu trái tim. Bởi nếu cái b. chỉ để đái,
thế còn “cái ấy” của phụ nữ thì
sao? Rồi còn sợi dây tình cảm nối người này với những người khác; chính sợi dây
đó làm đời sống tinh thần của con
người thêm phần phong phú. Thiếu nó,
thiếu chút ít thì còn cố chịu được, chứ thiếu nhiều thì
“chất người” sẽ nhạt dần đi,
còn vắng bặt nó thì con người sẽ không
còn là con người nữa.
Những người lính ở Miền Nam
cũng đau thương mất mát nhưng
không đến nỗi ghê gớm như vậy. Họ được chiến đấu ở “sân
nhà” nên hậu phương gần gũi hơn, mất mát về mặt tình
cảm ít hơn, nhẹ hơn. Những “cuộc vui
dang dở” thường có cơ hội lập lại để “vui
trọn đêm nay”.
Nhưng mất mát dù có nhẹ hơn chút
ít cũng vẫn là mất mát, cũng để lại những vết thương, những nỗi đau
sâu đậm trong tâm hồn mỗi người, chữa trị phải tốn rất nhiều thời gian
và công sức.
Tóm
Tắt Giá Trị Nghệ Thuật Của Bài Thơ
ƯU ĐIỂM:
1/ Tứ thơ hay: Lương Châu Từ mượn chuyện sống chết bất kỳ của chinh
nhân trong chiến tranh để biện minh
(xin thông cảm) cho một số thái độ, hành
động của người lính
ngoài chiến trường. “Túy ngọa sa trường” chỉ là một thí dụ.
2/ Tính nhân
Bản: Cái hay tuyệt của bài thơ nằm ở 2 chữ “Dục ẩm” – có
ý nói tiệc rượu chưa tàn,
nói rộng ra là “cuộc vui chưa trọn”. Chiến tranh
là tử biệt, sinh ly (chưa nói đến sự tàn
phá về vật chất). Nhưng
người đời thường chú
trọng phần “tử biệt” mà
coi nhẹ phần “sinh ly”. Chính “sinh ly” đã bóp nghẹt chữ “tình”
để con người chỉ còn là
những cỗ máy lao vào chém giết. Vương Hàn,
bằng 2 chữ “Dục ẩm” đã sử dụng thủ pháp
“gợi, không kể” (Show, Don’t Tell) một cách
điệu nghệ làm nổi bật chữ “tình”
bị bóp nghẹt đó. Tính nhân bản của bài thơ rất sâu đậm.
3/ Mặc dù
trong bài thơ, chiến tranh chỉ được mượn để biện minh
cho một số thái độ và
hành động của người lính
ngoài chiến trường nhưng
chính hình ảnh chiến tranh lại hiện lên rất đậm nét ở cả 2 mặt “tử biệt” và “sinh ly”. Có người còn đặt tựa cho
bài viết của mình về bài thơ này là
“Lương Châu Từ và Nỗi Buồn Chiến
Tranh” hoặc “Lương Châu Từ - Khúc
Bi Ca Thời Chiến”. Tôi cho rằng,
trong trường hợp Lương Châu
Từ, họ hoàn toàn có quyền làm
như vậy.
KHUYẾT ĐIỂM:
1/ Hai chữ “Dục ẩm” (như đã nói ở trên)
hơi không hợp lý.
2/ Câu “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” hơi “xa sự thực”, ảnh hưởng đến thủ pháp
“xạo nghệ thuật” và độ khả tín của bài
thơ. Chỉ nên nói đại ý
“chinh chiến thì sinh tử bất kỳ”.
3/ Bài thơ nặng về “kỹ thuật”
(ngôn ngữ, hình tượng, “gợi không
kể”), ít cảm xúc, lại quá
ngắn nên không có chỗ cho cảm xúc lớn mạnh để tạo cao
trào – không có cơ hội để hồn thơ xuất hiện.
Phổ Biến Rộng Rãi Nhờ Tứ Thơ
Thảm họa của chiến tranh
quá khủng khiếp. Nó là nỗi sầu, nỗi lo sợ, nỗi ám ảnh lớn nhất của nhân
loại. Mà muốn “phá thành sầu”, muốn quên
sợ, muốn trốn ám ảnh thì
không gì bằng rượu. Vì thế Lương Châu
Từ là bài thơ khá phổ biến, thỉnh thoảng được đọc trong
các tiệc rượu, hoặc những lúc
“trà dư tửu hậu” thời chiến
tranh. Hơn nữa, nó ngắn, dễ thuộc lại là thơ Hán -
Việt nên đọc cũng là một cách
“khoe tài”. Những nhà Nho Hán rộng, những người có hiểu biết về văn chương, thơ phú
thì không nói làm gì; ngay cả các ông một chữ Hán bẻ làm
đôi không biết, nói đến thơ phú
thì ù ù cạc cạc, cũng ráng học thuộc lòng
bài thơ rồi nhờ người giảng giải để ghi nhớ, chờ cơ hội vào
bàn nhậu là “trổ tài” góp vui với bà
con cô bác. (Tôi đã được hân hạnh giúp vốn cho hơn một chục ông
như vậy).
Bài thơ là tâm
sự của một vị tướng chỉ huy,
nhưng người đọc thơ không
phải là tướng tá (sĩ quan) cũng không sao.
Đã mặc áo lính là có thể ưỡn ngực với danh
hiệu chinh nhân. Mà nếu không phải là
chinh nhân cũng đâu có hề gì. Thảm họa của chiến tranh
lớn quá. Bàn tay tàn ác, gớm ghiếc của nó –
lúc trực tiếp, khi gián tiếp - có
thể vươn tới tất cả mọi người, bất kể lính
tráng hay dân thường. Rồi câu “Cổ lai
chinh chiến kỷ nhân hồi” có
quá lố một chút thì cũng có gì mà ầm ĩ? Rạch ròi
làm chi cái con số người sống sót
trở về! Và như thế, dù là
người đọc hay người nghe,
rất dễ thả hết tâm hồn vào
bài thơ, đồng cảm với tác
giả - nghĩa là cũng mở lòng bao dung với thái
độ, hành động của người lính
ngoài chiến trường (hay khi về phép ở hậu phương) –
đôi lúc thái quá, “khó coi” có khi còn
hơn cả “túy ngọa sa trường” nữa.
Điểm thành
công lớn của bài thơ là ở chỗ đó.
Kết Luận
Xét về nghệ thuật thơ, Lương Châu
Từ vẫn còn đôi chỗ lộm cộm, nhưng nhờ tứ thơ hay, đầy tính
nhân bản nên đã 13 thế kỷ trôi
qua, nó vẫn chưa có dấu hiệu sẽ đi vào
quên lãng. Theo tôi, đây là một bài thơ độc đáo.
Với những người yêu
thích cổ thi Trung Hoa, khi nhâm nhi ly bia, chén rượu, tách
trà, nhớ đến nỗi sầu “sinh
ly tử biệt” của chiến
tranh, Lương Châu Từ rất dễ bước vào
câu chuyện để “Mua vui cũng được một vài trống canh.”
TEXAS 05/2019
PHẠM ĐỨC NHÌ
CHÚ
THÍCH
1/
2/
3/
4/
5/
6/
THAM
KHẢO
1/ Bài Thơ Lương Châu
Từ kỳ 1, Vương Hàn, Thi Viện
2/ Lương Châu
Từ, Lý Văn Quý
3/ Về Bài “Lương Châu
Từ” Của Vương Hàn,
Hà Việt Hùng, Làng Huệ
4/ Lương Châu từ, Wikipedia tiếng Việt
5/ Lương Châu
Từ, Nguyễn Hoài Văn
6/ Lương Châu
Từ, Khai Phi Hạnh Nguyên
7/ Lương Châu
Từ - Khúc Bi Ca Thời Chiến, Lê
Quang Đức
8/ Lương Châu
Từ Và Nỗi Buồn Chiến
Tranh, Hình Phước Liên
|
Như các bạn đã biết, ngày nay nhu cầu dịch thuật hồ sơ là rất thiết thực. Mình cũng muốn giới thiệu về một Công ty dịch thuật uy tín - Công ty dịch thuật miền trung - MIDtrans trụ sở chính chính tại địa chỉ 02 Hoàng Diệu, TP Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình có Giấy phép kinh doanh số 3101023866 cấp ngày 9/12/2016 là đơn vị chuyên cung cấp dịch vụ dịch thuật, phiên dịch dành các cá nhân. Hệ thống thương hiệu và các Công ty dịch thuật con trực thuộc: dịch thuật biên hòa, đồng nai - dịch thuật miền trung tại địa 261/1 Tổ 5 KP 11, An Bình, Đồng Nai là địa chỉ chuyên cung cấp dịch vụ dịch thuật chuyên nghiệp tại Đồng Nai và các khu vực lân cận ; dịch thuật báo cáo tài chính tại sài gòn địa chỉ 47 Điện Biên Phủ, Phường Đakao, Quận 1 TP HCM, dịch thuật tân an, long an : địa 101 Tân An là nhà cung ứng dịch vụ dịch thuật uy tín hàng đầu tại Long An; Công ty dịch thuật Viettrans và dịc vụ binh thuan translation: dịch vụ dịch thuật tại Bình Thuận cho người nước ngoài có nhu cầu, giao diện tiếng Anh dễ sử dụng; dịch thuật tiếng tây ban nha tại sài gòn: nhà cung ứng dịch vụ dịch vụ dịch thuật phiên dịch hàng đầu tại TP Hồ Chí Minh; dịch thuật tiếng pháp tại Đà Nẵng : Địa chỉ 54 Đinh Tiên Hoàng, Quận Hải Châu, TP Đà Nẵng chuyên cung cấp dịch vụ dịch thuật công chứng, dịch thuật đa ngôn ngữ, đa chuyên ngành tại Đà Nẵng; Viettrans 43 Điện Biên Phủ, Quận 1 Sài Gòn: chuyên cung cấp dịch vụ dịch thuật đa chuyên ngành toàn quốc; Công ty dịch thuật Hà Nội MIDtrans chuyên cung cấp dịch vụ dịch thuật tại bạc liêu : địa chỉ 55 Lê Thánh Tông, TP Bà Rịa là nhà cung ứng dịch vụ biên dịch, phiên dịch chuyên nghiệp tại địa bàn Vũng Tàu. Ngoài ra, Chúng tôi cũng cung cấp các dịch vụ biên dịch và phiên dịch, dịch thuật công chứng chất lượng cao hơn 50 ngôn ngữ khác nhau như tiếng Anh, Nhật, Hàn, Trung, Pháp, Đức, Nga, .vv... Dịch thuật MIDtrans tự hào với đội ngũ lãnh đạo với niềm đam mê, khát khao vươn tầm cao trong lĩnh vực dịch thuật, đội ngũ nhân sự cống hiến và luôn sẵn sàng cháy hết mình. Chúng tôi phục vụ từ sự tậm tâm và cố gắng từ trái tim những người dịch giả.Tự hào là công ty cung cấp dịch thuật chuyên ngành hàng đầu với các đối tác lớn tại Việt nam trong các chuyên ngành hẹp như: vietnamese tours tại 46 Trần Cao Vân, TP Huế chuyên trang về thông tin du lịch và các tour đặc sắc tại Việt Nam, y dược (bao gồm bệnh lý), xây dựng (kiến trúc), hóa chất, thủy nhiệt điện, ngân hàng, tài chính, kế toán. Các dự án đã triển khai của Công ty dịch thuật chuyên nghiệp MIDtrans đều được Khách hàng đánh giá cao và đạt được sự tín nhiệm về chất lượng biên phiên dịch. Đó là kết quả của một hệ thống quản lý chất lượng dịch thuật chuyên nghiệp, những tâm huyết và kinh nghiệm biên phiên dịch nhiều năm của đội ngũ dịch giả của chúng tôi. Hotline: 0947688883. email: info@dichthuatmientrung.com.vn . Các bạn ghé thăm site ủng hộ nhé.
Trả lờiXóaCám ơn!
XóaTôi không có nhu cầu thuê dịch!
Một số điều thì chủ nhân có thể tự dịch.