LÀNG DIỀM ƠI!
THẾ GIỚI CỔ XƯA ƠI!
(
Thân tặng Đỗ Phấn và Đỗ Dũng,hai hoạ sĩ cùng có mặt bên tôi(Tam Đỗ)
trong cuộc rút quân khỏi Căm Pu Chia của Quân Tình nguyện Việt Nam năm
1989 và cũng là hai “liền anh”Quan họ đáng nể !).
Đỗ Trung Lai
Anh
Ngô Công Tình, người đã và đang viết sách về Quan họ, bên tách cà phê
thơm phức ở ngõ Hàng Cháo, rủ rỉ kể ra 6 "đặc sản" làng mình để mời
chúng tôi về làng Diềm bằng được:
1. Làng tôi có đền "Vua Bà", thờ bà Thủy tổ Quan họ. Vậy làng tôi là làng Quan họ cổ nhất, là "anh cả", "chị cả" Quan họ.
2.
Giọng nói làng tôi không giống bất cứ làng nào ở nước ta. Nó không phải
giọng Kinh Bắc, chả phải giọng Thanh Hóa. Có người bảo, đó là giọng Lạc
Việt.
3. Giếng đá ong
đền Cùng làng tôi có tự ngàn năm. Ai bị bệnh, uống nước giếng này đều
khỏi. Con gái làng tôi chỉ gội đầu nước giếng ấy, mà "tóc mây, tóc mây
la đà".
4. Đình làng tôi
đã đi vào ca dao: "Thứ nhất là đình Đông Khang - Thứ nhì đình Báng(đình
làng Đình Bảng bây giờ)- Vẻ vang đình Diềm". Đình Đông Khang ở Yên
Phong, đình Bảng ở Từ Sơn, còn đình Diềm, dĩ nhiên là đình làng tôi rồi.
5. Làng tôi còn di tích thành Long Biên. Một nhánh sông Cầu đang còn ôm lấy thành. Thành này do Lý Bí - Lý Nam Đế xây nên.
6. Làng tôi có nghệ nhân già, hát được đến hơn 200 bài hát của 36 giọng Quan họ. Bây giờ tìm cả xứ, không có ai thế nữa đâu.
*
Sao lại có người khéo mời đến thế? Từ chối một nơi như vậy, một người như vậy, có mà vô duyên! Thế là chúng tôi về Diềm.
Làng
Diềm, tên chữ là Viêm Xá. Thời xửa xưa, ban đầu, gọi là Viêm Trang.
Làng có hai con sông: sông Nguyệt Đức và sông Cổ Ngựa, là hai chi lưu
của sông Cầu.
Truyền
thuyết kể rằng, "Vua Bà" chính là công chúa con vua Hùng thứ sáu. Khi
“Bà” đến tuổi cập kê, vua cha mở hội "gieo cầu", kén chồng cho con gái.
Vô duyên làm sao, người mà công chúa không ưa thì lại bắt được cầu! “Bà”
xin vua cha cho từ hôn, chọn bỏ cung cấm, cùng đám thị nữ lên thuyền,
chấp nhận đời dân dã. Đến Viêm Trang, thấy sông nước hiền hòa, phong
cảnh tốt đẹp, bờ bãi màu mỡ, “Bà” ở lại khai phá đất đai, dạy dân làm
ruộng, chăn tằm, ươm tơ, dệt lụa… Và, kỳ diệu nhất, “Bà” đã sáng tác các
bài hát và dạy cho mọi người cùng hát. Đó là những điệu hát, bài hát
đầu tiên của dân ca Quan họ bây giờ. Chính vì vậy, "Vua Bà" chính là
thủy tổ của Quan họ.
Có
phải thế chăng,mà khá nhiều câu Quan họ có phong vị của những câu Xoan
ghẹo (Quan ghẹo)của đất Phong Châu xưa,vốn là nơi “Vua Bà” sinh ra và
lớn lên?
Có phải thế
chăng, mà đến tận bây giờ, liền anh với liền chị trong cùng một "chạ"
cũng không được lấy nhau, cũng đều phải "vô duyên" cho giống phận "Vua
Bà"?
Có phải thế chăng, mà mười câu Quan họ, thì đến chín câu nói về cái sự mong nhớ, ước ao, hỏi han, hò hẹn, bâng quơ, sầu thảm?
Có
phải thế chăng, mà vẻ đẹp xót xa của cả kẻ "còn duyên" lẫn "hết duyên",
đời này qua đời khác, cứ mãi chất chồng, cứ mãi như xát muối vào lòng
người, vốn bị thương chưa khỏi, từ cái thời xa xưa ấy?
Có
phải thế chăng, mà trên chiếu kia, bốn nữ nghệ nhân: Ngô Thị Khu, 90
tuổi; Nguyễn Thị Vũ, 85 tuổi; Ngô Thị Lịch, 82 tuổi; Nguyễn Thị Bàn, 79
tuổi; cùng với hai nam nghệ nhân: Ngô Văn Sự, 87 tuổi, thân sinh anh Ngô
Công Tình; Nguyễn Văn Bật, 86 tuổi; đóng vai chủ - khách, để bày ra cả
một phần "canh" Quan họ làng Diềm:
-
Chủ xuất rằng: "Em mong người như cá mong mưa - Mong người như bữa cơm
trưa đói lòng - Mong người những mấy tháng ròng - Hôm nay người đã có
lòng sang chơi - Mong người hết đứng lại ngồi - Hôm nay mới được ngồi
chơi một nhà".
- Khách
đối rằng: "Nhẽ ra thì em cũng ở nhà - Nhưng lòng bối rối như đà người
mong - Đêm qua bên ngọn đèn chong - Mượn câu sách truyện giải lòng hồ
nghi - Vì (năm, sáu người) nên em phải ra đi - Mong cho thấy mặt, dạ thì
mới nguôi".
- Chủ: "Kim
Lan ơi! Còn không, hay đã có nơi cả rồi? - Cây kiêu (cao) có quả chín
muồi - Trông thời mỏi mắt, chõi (chòi) thời mỏi tay - Càng trông càng
đắm càng say - Càng trông càng đợi càng ngày càng xa!".
Hát thế, người làng Diềm gọi là "Khoắn khứu" nhau. "Khoắn khứu" rồi, thì còn cùng hát mãi.
-
Khách lại đối: "Đường bạn Kim Lan đấy ơi! Nói năm nói bảy em ngồi em
nghe. Em mấy người xin có lời rằng: Con dao be bé sắc thay - Chuôi sừng
bít bạc về tay ai cầm - Lòng em yêu vụng nhớ thầm - Trách ông nguyệt lão
se nhầm duyên ai - Duyên em còn thắm chưa phai - Hay là người đã nghe
ai dỗ dành?".
- Chủ:
"Gió mát giăng thanh - Bỗng đâu thấy khách bên tình sang chơi - Mai
khách về thì em nhắn liễu Chương Đài - Ngành (nhành) xuân quyết bẻ cho
người trên tay - Trót bằng say nhau về phận về người - Vì ai nhan sắc
cho tày người ta - Nhác bằng em trông ra - Bóng ông giăng đã xế tà - Sao
mai mới mọc, tiếng gà gáy canh - Suốt năm canh thì (thời) gió mát giăng
thanh".
Chương Đài vốn
là một xóm nhỏ trong thành Trường An ở bên Trung Hoa xưa. Thơ Bà Huyện
Thanh Quan có câu: "Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ - Lấy ai mà kể nỗi
hàn ôn". Chương Đài trồng nhiều liễu. Bách Kiều, cũng ở Trường An. Người
đời Hán tiễn bạn đến Bách Kiều thì bẻ một cành liễu tặng bạn làm roi
ngựa. Nhân thế, người ta viết ra khúc hát "Chiết liễu" (Bẻ liễu), hát để
tặng bạn đi xa. Thế thì, phải là các sĩ tử, nho sinh, trí thức, mới có
thể đưa điển tích Trung Hoa cổ vào Quan họ chứ? Đủ biết, Quan họ đâu
thiếu chất hàn lâm. Sau này, thơ Nguyễn Du (Kiều) có những câu còn
nguyên hình hài ấy: "Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi", "Nhị đào
thà bẻ cho người tình chung", "Trông càng đắm, ngắm càng say - Lạ cho
mặt sắt cũng ngây vì tình"…
Thế
mà tự xửa xưa, Quan họ đã hát: "Càng trông càng đắm càng say - Càng
trông càng đợi càng ngày càng xa". Cách dùng chữ “càng” trong Quan họ,
đáng gọi là “bậc thầy” của cả Nguyễn Du, về phương diện tu từ - điệp từ
vậy. Chắc chắn Nguyễn Du không chỉ nghe hát phường vải. Những năm ở Bắc
Hà, thi nhân chắc cũng rất am tường Quan họ.
Khách:
"Tưởng nhớ về người - Lòng riêng bối rối bao nguôi chút tình - Đến bây
giờ giáp mặt đinh ninh - Phiền chi đến con cá bể, em bắt con chim rừng
đưa tin - Nếu chị hai yêu thì năng đi lại cho xa nên gần - Gần lại với
nhau tiện đường - Tiện câu tri kỷ để ân cần mấy (với) nhau - Kẻo là
luống công lênh này - Năm em đợi, tháng em chờ"…
Cứ
thế, các "anh", các "chị" bảy, tám, chín mươi tuổi và trăm cái xuân
xanh kia, ngày càng rủng rỉnh vốn với trăm ngàn câu hát, giữ người ở lại
suốt cả canh dài Quan họ. Không một kẻ nghiệp dư nào, biết lúc nào thì
họ hát câu "Kim Lan", câu "Gió mát", lúc nào thì hát câu "Cây gạo", vì
chỉ riêng năm câu "lề lối" ấy đã gồm mười vế rồi, cứ năm vế xuất thì có
năm vế đối lại. Cũng không biết lúc nào thì họ ra giọng "bỉ" hay giọng
"vặt" nữa!
Lúc mới vào
nhà, thấy họ đang nâu sồng, thế mà chỉ sau một tuần trà, từ buồng bên
bước ra ba gian chính đường, họ đã cực kỳ vương giả với áo gấm phủ the
đen, khăn xếp đội đầu hay yếm đào - khăn mỏ quạ…, rồi khoan thai mà
rằng: "Nhẽ ra thì em cũng ở nhà"… cho tới tận thâu đêm, khi mà "Bóng ông
giăng đã xế tà - Sao mai mới mọc - Tiếng gà gáy canh - Năm canh thì gió
mát giăng thanh".
Các
bài hát dường như vô tận; các điệu hát vô cùng phong phú với lời lẽ vô
cùng nhún nhường, khiêm cung mà lộng lẫy; tình đời, tình yêu vô cùng
nồng nàn đắm đuối mà vẫn vô cùng nền nếp. Lòng dạ thì như sóng trào mà
mỗi chữ nhả ra cùng với điệu bộ và nét mặt Quan họ vô cùng lịch sự -
hiền thục. Không bao giờ lời yêu lại phải bắn vào tai nhau như súng lục:
"Em có bỏ chồng về ở với tôi không?",”Em mặc váy ngắn thế thì tôi ngủ
với em cách nào “…!
Các
cung bậc tình cảm vịn vào những câu hát mà trùng trùng hiển hiện, vắt va
vắt vẻo, "lọc cũng chẳng trong hơn, khuấy cũng chẳng đục hơn" được nữa.
Chả
thế mà, ngay cả bức cửa võng ở đình Diềm cũng khác với thiên hạ. Nó kéo
dài từ tận thượng lương xuống đến sàn đình, chia làm bốn tầng, tính từ
trên xuống: Tầng một chạm trổ cảnh tiên cưỡi rồng và chim cắp đèn lồng.
Tầng hai là rồng và thiếu nữ xem hoa. Tầng ba và tầng bốn là rồng, mây,
sen, trúc, thú, người. Ngôi đình bên núi Quả Cảm này được coi là ngôi
đình rất cổ và làng Diềm được coi là một trong những làng Việt cổ xưa
nhất Bắc Bộ, gắn với nhiều huyền tích thời Hùng Vương.
Chả thế mà ban đầu đình vốn thờ Trương Hống, Trương Hát, lại phối thờ cả "Vua Bà". Sau mới xây đền "Vua Bà" riêng.
Còn
đền Cùng, vốn để thờ Ngọc Dung, Ngọc Hoa, hai công chúa có công chặn
giặc phương Bắc, lại có cái giếng đá ong hình vuông, qua không biết bao
thế kỷ, nước vẫn trong và hôm chúng tôi đến, đôi cá chép vàng (Hoàng lý
ngư) nghìn tuổi vẫn nổi lên cho chúng tôi thưởng lãm, trước khi lặn
xuống nguồn sâu không mắt nào thấy được.
Chả thế mà, ngay cả giọng nói bây giờ của người làng Diềm, tương truyền, cũng là giọng người Lạc Việt xưa.
Đến
Diềm Xá một lần, khách về như là mang cả một thế giới cổ xưa về theo.
Hạnh phúc thay cho dân làng Diềm, khi họ được sống mãi trong cái thế
giới ấy! Hạnh phúc thay cho ai rời làng Diềm, mà trong lòng vẫn có cái
thế giới ấy!
Nhưng hình
như, không, quả thật thì mới đúng, đời sống hiện đại đang đẩy cái thế
giới ấy ra xa mình, bằng một lối sống và những lời lẽ sàm sỡ, đối nghịch
với Quan họ.
Có cách
nào dung hòa cái thế giới cổ xưa kia vào đời sống hiện đại được không,
để cái thế giới ấy không chỉ là “bảo tàng”, nó còn được tham dự bình
đẳng vào đời sống văn hóa đương đại,thậm chí,soi sáng cho đời sống văn
hoá đương đại?
(
Thân tặng Đỗ Phấn và Đỗ Dũng, hai hoạ sĩ cùng có mặt bên tôi(Tam Đỗ)
trong cuộc rút quân khỏi Căm Pu Chia của Quân Tình nguyện Việt Nam năm
1989 và cũng là hai “liền anh”Quan họ đáng nể !).
Đỗ Trung Lai
Anh
Ngô Công Tình, người đã và đang viết sách về Quan họ, bên tách cà phê
thơm phức ở ngõ Hàng Cháo, rủ rỉ kể ra 6 "đặc sản" làng mình để mời
chúng tôi về làng Diềm bằng được:
1. Làng tôi có đền "Vua Bà", thờ bà Thủy tổ Quan họ. Vậy làng tôi là làng Quan họ cổ nhất, là "anh cả", "chị cả" Quan họ.
2.
Giọng nói làng tôi không giống bất cứ làng nào ở nước ta. Nó không phải
giọng Kinh Bắc, chả phải giọng Thanh Hóa. Có người bảo, đó là giọng Lạc
Việt.
3. Giếng đá ong
đền Cùng làng tôi có tự ngàn năm. Ai bị bệnh, uống nước giếng này đều
khỏi. Con gái làng tôi chỉ gội đầu nước giếng ấy, mà "tóc mây, tóc mây
la đà".
4. Đình làng tôi
đã đi vào ca dao: "Thứ nhất là đình Đông Khang - Thứ nhì đình Báng(đình
làng Đình Bảng bây giờ)- Vẻ vang đình Diềm". Đình Đông Khang ở Yên
Phong, đình Bảng ở Từ Sơn, còn đình Diềm, dĩ nhiên là đình làng tôi rồi.
5. Làng tôi còn di tích thành Long Biên. Một nhánh sông Cầu đang còn ôm lấy thành. Thành này do Lý Bí - Lý Nam Đế xây nên.
6. Làng tôi có nghệ nhân già, hát được đến hơn 200 bài hát của 36 giọng Quan họ. Bây giờ tìm cả xứ, không có ai thế nữa đâu.
*
Sao lại có người khéo mời đến thế? Từ chối một nơi như vậy, một người như vậy, có mà vô duyên! Thế là chúng tôi về Diềm.
Làng
Diềm, tên chữ là Viêm Xá. Thời xửa xưa, ban đầu, gọi là Viêm Trang.
Làng có hai con sông: sông Nguyệt Đức và sông Cổ Ngựa, là hai chi lưu
của sông Cầu.
Truyền
thuyết kể rằng, "Vua Bà" chính là công chúa con vua Hùng thứ sáu. Khi
“Bà” đến tuổi cập kê, vua cha mở hội "gieo cầu", kén chồng cho con gái.
Vô duyên làm sao, người mà công chúa không ưa thì lại bắt được cầu! “Bà”
xin vua cha cho từ hôn, chọn bỏ cung cấm, cùng đám thị nữ lên thuyền,
chấp nhận đời dân dã. Đến Viêm Trang, thấy sông nước hiền hòa, phong
cảnh tốt đẹp, bờ bãi màu mỡ, “Bà” ở lại khai phá đất đai, dạy dân làm
ruộng, chăn tằm, ươm tơ, dệt lụa… Và, kỳ diệu nhất, “Bà” đã sáng tác các
bài hát và dạy cho mọi người cùng hát. Đó là những điệu hát, bài hát
đầu tiên của dân ca Quan họ bây giờ. Chính vì vậy, "Vua Bà" chính là
thủy tổ của Quan họ.
Có
phải thế chăng,mà khá nhiều câu Quan họ có phong vị của những câu Xoan
ghẹo (Quan ghẹo)của đất Phong Châu xưa,vốn là nơi “Vua Bà” sinh ra và
lớn lên?
Có phải thế
chăng, mà đến tận bây giờ, liền anh với liền chị trong cùng một "chạ"
cũng không được lấy nhau, cũng đều phải "vô duyên" cho giống phận "Vua
Bà"?
Có phải thế chăng, mà mười câu Quan họ, thì đến chín câu nói về cái sự mong nhớ, ước ao, hỏi han, hò hẹn, bâng quơ, sầu thảm?
Có
phải thế chăng, mà vẻ đẹp xót xa của cả kẻ "còn duyên" lẫn "hết duyên",
đời này qua đời khác, cứ mãi chất chồng, cứ mãi như xát muối vào lòng
người, vốn bị thương chưa khỏi, từ cái thời xa xưa ấy?
Có
phải thế chăng, mà trên chiếu kia, bốn nữ nghệ nhân: Ngô Thị Khu, 90
tuổi; Nguyễn Thị Vũ, 85 tuổi; Ngô Thị Lịch, 82 tuổi; Nguyễn Thị Bàn, 79
tuổi; cùng với hai nam nghệ nhân: Ngô Văn Sự, 87 tuổi, thân sinh anh Ngô
Công Tình; Nguyễn Văn Bật, 86 tuổi; đóng vai chủ - khách, để bày ra cả
một phần "canh" Quan họ làng Diềm:
-
Chủ xuất rằng: "Em mong người như cá mong mưa - Mong người như bữa cơm
trưa đói lòng - Mong người những mấy tháng ròng - Hôm nay người đã có
lòng sang chơi - Mong người hết đứng lại ngồi - Hôm nay mới được ngồi
chơi một nhà".
- Khách
đối rằng: "Nhẽ ra thì em cũng ở nhà - Nhưng lòng bối rối như đà người
mong - Đêm qua bên ngọn đèn chong - Mượn câu sách truyện giải lòng hồ
nghi - Vì (năm, sáu người) nên em phải ra đi - Mong cho thấy mặt, dạ thì
mới nguôi".
- Chủ: "Kim
Lan ơi! Còn không, hay đã có nơi cả rồi? - Cây kiêu (cao) có quả chín
muồi - Trông thời mỏi mắt, chõi (chòi) thời mỏi tay - Càng trông càng
đắm càng say - Càng trông càng đợi càng ngày càng xa!".
Hát thế, người làng Diềm gọi là "Khoắn khứu" nhau. "Khoắn khứu" rồi, thì còn cùng hát mãi.
-
Khách lại đối: "Đường bạn Kim Lan đấy ơi! Nói năm nói bảy em ngồi em
nghe. Em mấy người xin có lời rằng: Con dao be bé sắc thay - Chuôi sừng
bít bạc về tay ai cầm - Lòng em yêu vụng nhớ thầm - Trách ông nguyệt lão
se nhầm duyên ai - Duyên em còn thắm chưa phai - Hay là người đã nghe
ai dỗ dành?".
- Chủ:
"Gió mát giăng thanh - Bỗng đâu thấy khách bên tình sang chơi - Mai
khách về thì em nhắn liễu Chương Đài - Ngành (nhành) xuân quyết bẻ cho
người trên tay - Trót bằng say nhau về phận về người - Vì ai nhan sắc
cho tày người ta - Nhác bằng em trông ra - Bóng ông giăng đã xế tà - Sao
mai mới mọc, tiếng gà gáy canh - Suốt năm canh thì (thời) gió mát giăng
thanh".
Chương Đài vốn
là một xóm nhỏ trong thành Trường An ở bên Trung Hoa xưa. Thơ Bà Huyện
Thanh Quan có câu: "Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ - Lấy ai mà kể nỗi
hàn ôn". Chương Đài trồng nhiều liễu. Bách Kiều, cũng ở Trường An. Người
đời Hán tiễn bạn đến Bách Kiều thì bẻ một cành liễu tặng bạn làm roi
ngựa. Nhân thế, người ta viết ra khúc hát "Chiết liễu" (Bẻ liễu), hát để
tặng bạn đi xa. Thế thì, phải là các sĩ tử, nho sinh, trí thức, mới có
thể đưa điển tích Trung Hoa cổ vào Quan họ chứ? Đủ biết, Quan họ đâu
thiếu chất hàn lâm. Sau này, thơ Nguyễn Du (Kiều) có những câu còn
nguyên hình hài ấy: "Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi", "Nhị đào
thà bẻ cho người tình chung", "Trông càng đắm, ngắm càng say - Lạ cho
mặt sắt cũng ngây vì tình"…
Thế
mà tự xửa xưa, Quan họ đã hát: "Càng trông càng đắm càng say - Càng
trông càng đợi càng ngày càng xa". Cách dùng chữ “càng” trong Quan họ,
đáng gọi là “bậc thầy” của cả Nguyễn Du, về phương diện tu từ - điệp từ
vậy. Chắc chắn Nguyễn Du không chỉ nghe hát phường vải. Những năm ở Bắc
Hà, thi nhân chắc cũng rất am tường Quan họ.
Khách:
"Tưởng nhớ về người - Lòng riêng bối rối bao nguôi chút tình - Đến bây
giờ giáp mặt đinh ninh - Phiền chi đến con cá bể, em bắt con chim rừng
đưa tin - Nếu chị hai yêu thì năng đi lại cho xa nên gần - Gần lại với
nhau tiện đường - Tiện câu tri kỷ để ân cần mấy (với) nhau - Kẻo là
luống công lênh này - Năm em đợi, tháng em chờ"…
Cứ
thế, các "anh", các "chị" bảy, tám, chín mươi tuổi và trăm cái xuân
xanh kia, ngày càng rủng rỉnh vốn với trăm ngàn câu hát, giữ người ở lại
suốt cả canh dài Quan họ. Không một kẻ nghiệp dư nào, biết lúc nào thì
họ hát câu "Kim Lan", câu "Gió mát", lúc nào thì hát câu "Cây gạo", vì
chỉ riêng năm câu "lề lối" ấy đã gồm mười vế rồi, cứ năm vế xuất thì có
năm vế đối lại. Cũng không biết lúc nào thì họ ra giọng "bỉ" hay giọng
"vặt" nữa!
Lúc mới vào
nhà, thấy họ đang nâu sồng, thế mà chỉ sau một tuần trà, từ buồng bên
bước ra ba gian chính đường, họ đã cực kỳ vương giả với áo gấm phủ the
đen, khăn xếp đội đầu hay yếm đào - khăn mỏ quạ…, rồi khoan thai mà
rằng: "Nhẽ ra thì em cũng ở nhà"… cho tới tận thâu đêm, khi mà "Bóng ông
giăng đã xế tà - Sao mai mới mọc - Tiếng gà gáy canh - Năm canh thì gió
mát giăng thanh".
Các
bài hát dường như vô tận; các điệu hát vô cùng phong phú với lời lẽ vô
cùng nhún nhường, khiêm cung mà lộng lẫy; tình đời, tình yêu vô cùng
nồng nàn đắm đuối mà vẫn vô cùng nền nếp. Lòng dạ thì như sóng trào mà
mỗi chữ nhả ra cùng với điệu bộ và nét mặt Quan họ vô cùng lịch sự -
hiền thục. Không bao giờ lời yêu lại phải bắn vào tai nhau như súng lục:
"Em có bỏ chồng về ở với tôi không?",”Em mặc váy ngắn thế thì tôi ngủ
với em cách nào “…!
Các
cung bậc tình cảm vịn vào những câu hát mà trùng trùng hiển hiện, vắt va
vắt vẻo, "lọc cũng chẳng trong hơn, khuấy cũng chẳng đục hơn" được nữa.
Chả
thế mà, ngay cả bức cửa võng ở đình Diềm cũng khác với thiên hạ. Nó kéo
dài từ tận thượng lương xuống đến sàn đình, chia làm bốn tầng, tính từ
trên xuống: Tầng một chạm trổ cảnh tiên cưỡi rồng và chim cắp đèn lồng.
Tầng hai là rồng và thiếu nữ xem hoa. Tầng ba và tầng bốn là rồng, mây,
sen, trúc, thú, người. Ngôi đình bên núi Quả Cảm này được coi là ngôi
đình rất cổ và làng Diềm được coi là một trong những làng Việt cổ xưa
nhất Bắc Bộ, gắn với nhiều huyền tích thời Hùng Vương.
Chả thế mà ban đầu đình vốn thờ Trương Hống, Trương Hát, lại phối thờ cả "Vua Bà". Sau mới xây đền "Vua Bà" riêng.
Còn
đền Cùng, vốn để thờ Ngọc Dung, Ngọc Hoa, hai công chúa có công chặn
giặc phương Bắc, lại có cái giếng đá ong hình vuông, qua không biết bao
thế kỷ, nước vẫn trong và hôm chúng tôi đến, đôi cá chép vàng (Hoàng lý
ngư) nghìn tuổi vẫn nổi lên cho chúng tôi thưởng lãm, trước khi lặn
xuống nguồn sâu không mắt nào thấy được.
Chả thế mà, ngay cả giọng nói bây giờ của người làng Diềm, tương truyền, cũng là giọng người Lạc Việt xưa.
Đến
Diềm Xá một lần, khách về như là mang cả một thế giới cổ xưa về theo.
Hạnh phúc thay cho dân làng Diềm, khi họ được sống mãi trong cái thế
giới ấy! Hạnh phúc thay cho ai rời làng Diềm, mà trong lòng vẫn có cái
thế giới ấy!
Nhưng hình
như, không, quả thật thì mới đúng, đời sống hiện đại đang đẩy cái thế
giới ấy ra xa mình, bằng một lối sống và những lời lẽ sàm sỡ, đối nghịch
với Quan họ.
Có cách
nào dung hòa cái thế giới cổ xưa kia vào đời sống hiện đại được không,
để cái thế giới ấy không chỉ là “bảo tàng”, nó còn được tham dự bình
đẳng vào đời sống văn hóa đương đại,thậm chí,soi sáng cho đời sống văn
hoá đương đại?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét