Bài của PGS.TS. Hữu Đạt trên Lao Động cuối tuần online. Vanvn.vn đăng lại
Nhà phê bình Vũ Nho: Tuổi bảy mươi vẫn ham đi tìm cái mới lạ
Vanvn- Nhà văn Vũ Nho năm nay đã ở tuổi bảy lăm, nhưng tôi vẫn muốn có cái tít bài làm anh trẻ trung đi một chút. Bởi ở cái tuổi ấy, giọng văn anh vẫn trẻ trung, tươi tắn đến nỗi, đọc anh mà chẳng thấy anh già đi chút nào.
Tôi và anh Vũ Nho là bạn văn đúng theo câu “Văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình”. Thực ra, cũng có “kiến hình”, nhưng chỉ qua các phương tiện truyền thông hiện đại, mà chưa bắt tay nhau hay uống với nhau một chén trà nào cả. Ấy vậy mà cũng tặng sách cho nhau mấy lần rồi. Đó là cái duyên. Khi anh đọc cuốn “Thơ tình và thơ hình họa” của tôi, cùng với cuốn “Văn khoa chân dung ký”, anh đã viết hai bài phê bình rất ấn tượng được nhiều bạn bè ưa thích khi đăng lên báo.
Tôi muốn nói đến chất tươi tắn trong văn của Vũ Nho vì ở tuổi phân giữa của bảy mươi và tám mươi, nhiều người chỉ còn lo đi chữa bệnh hoặc dưỡng già, còn Vũ Nho lại cứ ngồi ghì bên bàn để viết… với tất cả niềm mê say, yêu nghề nghiệp. Đó là phong cách của một nhà giáo, một nhà nghiên cứu kiêm nhà phê bình rất có trách nghiệm.
Cuốn “Hồ Xuân Hương Đời và Thơ” của Vũ Nho được viết dưới dạng một công trình khảo cứu. Nó gồm hai phần cơ bản: Phần một là khảo sát tư liệu. Phần hai là phần đưa ra các ý kiến bình luận và nhận định cá nhân. Cả hai phần này đều rất quan trọng, bởi nếu phần một không làm cho thật kỹ thì phần hai có thể dẫn đến những hồ đồ và trùng lặp. Nếu phần một làm rất công phu, nhưng phần hai làm chỉ sơ sài thì công trình ít có cái mới.
Với góc nhìn đó, tôi đánh giá rất cao công trình khảo cứu của nhà phê bình Vũ Nho. Anh không chỉ “khảo” một cách rất cẩn thận các ý kiến và kết quả nghiên cứu của người đi trước mà còn có những suy nghĩ sâu sắc về các cứ liệu mà mình thu được. Quá trình phẩm bình lại các ý kiến của người đi trước, dù ở mức nào, anh vẫn biểu thị một sự trân trọng hết mực với các đồng nghiệp, bất cứ họ trẻ hay già, nam hay nữ. Đó là cách hành xử của một người vừa khiêm nhường, vừa lịch lãm.
Đọc cuốn sách này, bạn đọc có thể nhận ra nhiều cái mới. Mới về tư liệu, mới về cách tổ chức cấu trúc văn bản và cách phân tích, đánh giá tư liệu. Đặc biệt, giọng văn của anh đọc rất dễ chịu, bởi nó hài hòa giữa tình và lý, giữa bàn và luận, giữa nghiên cứu và phê bình. Đúng như cấu trúc phong thủy hiện ra trong tên anh. Anh họ Vũ, tên Nho. Nếu văn anh dữ dội, bạo liệt thì sẽ gây ra những cú sốc, khó đến với bạn đọc. Chữ “Nho” chính là yếu tố giảm tải để tạo ra sự hài hòa trong phong cách viết văn, tạo ra phẩm cách Vũ Nho.
Trước Vũ Nho, cái làm nên sự cuốn hút trong các công trình có liên quan đến Hồ Xuân Hương đều khởi phát từ sự độc đáo trong phong cách thi ca và tính bí ẩn trong đời tư nghệ sĩ. Cứ tưởng “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”, ấy vậy mà càng nói lại thấy càng chưa biết. Cuộc đời Hồ Xuân Hương lạ đến thế là cùng! Cuộc đời lạ nên thơ Hồ Xuân Hương cũng lạ. Lạ từ cách bộc lộ ý tứ đến cách dùng từ ngữ, cách tạo câu. Vì thế, Xuân Diệu từng gọi Hồ Xuân Hương là “bà Chúa của thơ Nôm”.
Sách giáo khoa đã đưa thơ Hồ Xuân Hương vào chương trình giảng dạy, nhưng vẫn còn bao ý kiến xa nhau trong cách đánh giá tư liệu, chưa nói là còn khác biệt, thậm chí đối lập nhau. Như thế, việc thưởng thức nghệ thuật thơ bà chẳng những gặp khó khăn mà việc giảng dạy còn nan giải hơn nữa. Có lẽ đó là nỗi trăn trở thường trực khiến cho Vũ Nho quyết tâm dành nhiều tâm huyết để đi sâu vào công việc khảo cứu, một công việc có lẽ là tỉ mẩn và mệt mỏi bậc nhất mà nếu chỉ một chút thiếu kiên trì là rất dễ bỏ cuộc.
Nói là tỉ mẩn và mệt mỏi vì, riêng khâu thu thập tư liệu đã phải đọc nhiều, rồi lại phải ghi chép sao cho thật hệ thống, khoa học để sau còn trích dẫn. Trích dẫn vào đâu? Khi nào? Trích dẫn ai trước, rồi đến ai? … Cứ tưởng như là đơn giản, nhưng thực ra nó bề bộn và rích rắc lắm vậy. Chỉ ai đã từng làm công việc này mới thấu hiệu hết cái sự nhọc nhằn, đôi khi ớn đến tận xương sống mà người trong cuộc phải chịu đựng, bởi nó rất vụn vặt, lỉnh kỉnh, giống như cô Tấm phải ngồi bới từng hạt thóc ra khỏi gạo. Vụn vặt vì phải ghi ghi chép chép từng đoạn, từng câu. Lỉnh kỉnh vì phải so sánh cái nọ với cái kia, phải ngắm nghía, định giá sao cho khách quan để khỏi mang tiếng là thiếu vô tư trong nhận định. Ôi! Mệt mỏi lắm thay! Cứ ngồi trong cái đống ngồn ngộn giấy má đã đau lưng mỏi gối lắm rồi, lại còn chắt lọc từng bài, từng chương xem người đi trước nói gì, rồi rút lấy cái tinh túy nhất của họ để đặt lên bàn cân…
Từ góc độ chuyên môn, có thể xem công trình này như là một mẫu mực của loại công trình khảo cứu. Vì nó vừa khái quát, lại vừa có những phân tích cụ thể. Chẳng hạn, ở trang 59, Vũ Nho đã viện dẫn ý kiến của GS Hoàng Xuân Hãn, khi GS căn cứ và tài liệu của ông Trần Thanh Mại và Nguyễn Lộc để dựng lại mối tình của Xuân Hương với Tốn Phong: “Nguyễn Lộc cho biết bốn bài thơ Nôm Xuân Hương đáp Tốn Phong nhưng không chú dẫn. Nhưng tôi cũng gắng xét nội dung để đoán cảnh ngộ và tâm tình của Nàng. Hai bài gộp với đầu đề: “Hai bài ngụ ý đến Tôn Phong thị”. Tôi đoán bài đầu làm lúc ban đầu Tốn Phong mới gặp và đã tỏ lời gạ gẫm trong thơ:
“Chồn bước may đâu khéo hẹn hò!
Duyên chi hay bởi chỉ nợ chi ru?
Sương xoa áo lục nhồi hơi lạ
Gió lọt cành lê lướt mặt hồ
…
Trong trần mấy kẻ tinh con mắt
Biết ngọc mà trao mới kể cho”
Tuy là đoán, nhưng cách phân tích của GS lại hướng về khẳng định (xem thêm trang 60). Vũ Nho biểu thị sự ủng hộ của mình bằng cách chú đậm.
Cách tranh luận của Vũ Nho là thế. Anh không thiên về “Vũ” mà cũng không quá về “Nho”. Văn phê bình của anh không gay gắt chỉ trích mà cũng không tán dương một cách dễ dàng. Anh có chính kiến riêng, kiên quyết, nhưng không hàm hồ phủ định hay sổ toẹt người khác. Chẳng hạn, đánh giá về lập luận của Đào Thái Tôn về bài “khóc ông phủ Vĩnh Tường”, Vũ Nho tuy biểu thị sự trân trọng với người đi trước, song vẫn có cách để thể hiện ý kiến rất khác, thậm chí ngược lại của mình. Anh viết: “Phải nói là TS Đào Thái Tôn chặt chẽ và chính xác, khó lòng bắt bẻ! Thế nhưng, TS Đào Thái Tôn quên mất một điều rằng…”. Trong cuốn sách của mình, Vũ Nho đánh giá rất cao những phát hiện mới trong công trình nghiên cứu của Nghiêm Thị Hằng và coi các tài liệu thu được từ công trình này đặc biệt có ích. Đây là tình thần “thực sự cầu thị” rất cần có của một nhà nghiên cứu.
Có thể nói, so với các kết quả nghiên cứu đã có về Hồ Xuân Hương, các phát hiện mới của Vũ Nho được thể hiện khá rõ. Điều ấy được khái quát tập trung ở hai bảng niên biểu về cuộc đời và tác phẩm của Hồ Xuân Hương (trong các trang 105 -107, 141-143). Với các kết quả này, người đọc có cơ sở để hiểu sâu hơn tính phức tạp của vấn đề và quá trình cần giải quyết các hiện tượng dị bản để đi đến khẳng định giá trị của văn bản gốc.
Chính vì thế, dù đánh giá rất cao những phát hiện mới của nhà nghiên cứu Nghiêm Thị Hằng, Vũ Nho vẫn luôn có ý thức tách biệt rõ cái phần nhận thức trực cảm và nhận thức mang tính khoa học để xác định lại các điểm còn mù mờ trong tư liệu. Anh khẳng định: “Như vậy chứng cớ của việc lấy chồng của bà Hồ Xuân Hương đó là hai bài thơ “Khóc Tổng Cóc” và “Khóc ông phủ Vĩnh Tường”. Theo chúng tôi, cách phân tích của Vũ Nho rất đáng tin cậy vì nó dựa trên sự phân tích so sánh đối chiếu văn bản kết hợp với tâm lý sáng tạo văn học. Thiết nghĩ, các đóng góp mới đó của Vũ Nho rất cần được các nhà biên soạn sách giáo khoa mới tham khảo để việc giảng dạy về Hồ Xuân Hương đạt được kết quả ngày một tốt hơn.
Từ các phân tích trên, chúng tôi khẳng định sự ủng hộ của mình trước những phát hiện mới của Vũ Nho trong công trình “Hồ Xuân Hương Thơ và đời”. Theo chúng tôi, đây là một bước tiến mới trong nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Bởi vậy, cuốn sách rất có ý nghĩa không chỉ với những ai quan tâm về lĩnh vực này trong nghiên cứu mà còn là một tài liệu quan trọng để giáo viên các cấp cũng như các nghiên cứu sinh, học viên tìm hiểu, học tập đặng phục vụ trực tiếp cho công việc đang thực hiện.
HỮU ĐẠT/LĐO
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét