Thứ Năm, 26 tháng 6, 2025

NGUYỄN ĐÌNH NHỮ dịch

 NGUYỄN ĐÌNH NHỮ  dịch

hoa_sung_1

  

VŨ HUY ĐĨNH

(1730 - 1789)

Vũ Huy Đĩnh   (1730 - 1789), tự Ôn Kỳ  , thụy Văn Trung  , ông còn có tên là Trọng Cung  và Huy Tú  . Vũ Huy Đĩnh người xã Mộ trạch, huyện Đường An (nay thuộc huyện Ninh Giang, Hải Dương). Ông thi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiên sĩ, xuất thân năm Giáp Tuất, niên hiệu Cảnh hưng 15  1754), đời vua Lê Hiển Tông.Ông giữ các chức quan như: Thừa chính sứ, Hữu thị lang Bộ Lễ, tước Hồng trạch bá và được cử đi sứ sang nhà Thanh (Trung Quốc).

Tác phẩm:

Hoa trình thi tập    

 

      

(              

             )

 

      臺,

      才。

      急,

      回。

      火,

      灰。

      處,

      推。

  

ĐỀ GIA CÁT LƯỢNG CẦU PHONG ĐÀI

(Tự Nhạc Châu tiến hành kinh Xích Bích ngạn cập

Nam Bình Vũ Hầu cầu phong đài cựu chỉ do tồn kim

kiến vi từ hương hỏa bất tuyệt)

Sổ lĩnh Bình Sơn nhất thốc đài,

Càn toàn tạo hóa hiện kỳ tài

Dục y Công Cẩn sư trung cấp

Vi hoán Phi Liêm tốn thương hồi

Tào trại chiến thuyền khu nhất hỏa

Hán gia viêm đỉnh phiến dư hôi

Giang tiền khách khả phiêu phàm xứ,

Do nhạ tinh đàn vũ phiến thôi.

Vũ Huy Đĩnh

_______________________

- Công Cẩn: là tên tự của Chu Du, một mưu tướng của quân Ngô -Tôn, dùng hỏa công đánh 80 vạn quân thuyền chiến của Tào Tháo trong trận Xích Bích. Trước trận này, Chu Du đã tìm ra kế sách đánh thắng quân Tào, nhưng chỉ hiềm lúc ấy là mùa gió bắc nên khó thực hiện kế hỏa công, khiến sinh thành bệnh trong lòng, Gia Cát Lượng biết được điều đó, liền bảo lập đàn thất tinh ở chân núi Nam Bình, cao bảy trượng, chia làm ba tầng để hô phong, sau quả Gia Cát Lượng cầu được gió Đông Nam, giúp Chu Du thực hiện kế sách, bệnh Chu Du liền khỏi - Phi Liêm: là thần gió, có thuyết nói đó là một loài chim thần có khả năng làm gió - Tào trại: trại quân Tào. Bấy giờ Tào Tháo mắc mưu của Bàng Thống cho các chiến thuyền liên kết lại với nhau bằng xích sắt (để thuyền khỏi tròng trành, đi trên thuyền mà như trên cạn), nên khi bị hỏa công thì không thể chạy thoát được, cháy rụi trong mồi lửa - Vạc đỏ (viêm đỉnh): Nhà Hán được các nhà sấm vị cho là có hỏa đức, chủ về màu đỏ, do đó vạc đỏ chỉ vận số nhà Hán

 

Dịch nghĩa:

ĐỀ THƠ Ở ĐÀI GIA CÁT LƯỢNG CẦU GIÓ

(Đi từ Nhạc Châu qua bờ Xích Bích đến núi Nam Bình, di tích đài

Vũ Hầu cầu gió xưa vẫn còn, nay xây thành đền thờ, khói hương không dứt)

Dưới chân mấy ngọn núi Nam Bình thấy một cụm đài

Xoay chuyển cả tạo hóa thấy bậc kì tài

Muốn chữa bệnh nguy cấp trong lòng quân sư Công Cẩn

Lập đàn gọi thần Phi Liêm thổi gió nam về

Thuyền chiến trại quân Tào quay cuồng trong mồi lửa

Vạc đỏ nhà Hán thổi bùng đám tro tàn

Trước sông thổi căng buồm thuyền khách

Cứ ngỡ là trên đàn thất tinh chiếc quạt lông đang phất

 

Dịch thơ:

ĐỀ THƠ

Ở ĐÀI GIA CÁT LƯỢNG CẦU GIÓ

Dưới núi Tam Bình một cụm đài

Vần xoay tạo hóa bậc anh tài

Chữa lòng Công Cẩn lâm nguy cấp

Cầu đấng Phi Liêm gọi gió mai

Thuyền chiến quân Tào chìm lửa khói

Vạc hồng nhà Hán thổi tro bay

Trước sông thuyền khách buồm căng gió

Cứ ngỡ đàn Tinh quạt phất hoài.

N.Đ.N.

 

   

      經,

      名。

      國,

      兵。

      在,

      聲。

      局,

      聲。

  

 

XÍCH BÍCH HOÀI CỔ

Thương hải tang điền biến kỷ kinh,

Chiến trường chung cổ thượng lưu danh.

Thiên thành Hán đỉnh tam phân quốc,

Địa táng Tào gia bách vạn binh.

Hoành sóc giang sơn vô tận tại,

Khấu huyền phong nguyệt hữu dư thanh.

Thiên thu đa thiểu bi hoan cục,

Tổng phó ngư ông văn địch thanh.

Vũ Huy Đĩnh

_______________________

- Gõ mạn thuyền: có lẽ nhắc đến chuyện Tô Thức đi thuyền du chơi trên sông Xích Bích và để lại hai bài phú nổi tiếng là "Tiền Xích Bích phú" và "Hậu Xích Bích phú"

 

Dịch nghĩa:

XÍCH BÍCH HOÀI CỔ

Cuộc đổi thay dâu bể đã trải qua bao lượt

[Vậy mà] bãi chiến trường xa xưa vẫn còn lưu danh

Trời làm cho vạc nhà Hán thành thế nước chia ba

Đất chôn hàng trăm vạn quân Tào Tháo

Cắp ngang ngọn giáo bảo vệ giang sơn dấu còn ghi mãi mãi

Gõ mạn thuyền thưởng thức gió trăng tiếng dư vang

Ngàn thu trải biết bao nhiêu cuộc buồn vui

Đều gởi trong tiếng sáo chiều của người đánh cá.

 

Dịch thơ:

XÍCH BÍCH HOÀI CỔ

Dâu bể bao lần biến đổi nhanh

Chiến trường xưa ấy đã lưu danh

Trời làm vạc Hán chia ba nước

Địa táng quân Tào có vạn binh

Ngọn giáo giữ nhà ghi mãi dấu

Mạn thuyền trăng gió tiếng dư vinh

Vui buồn đã trải bao năm tháng

Đều gửi ngư ông khúc sáo thanh.

  1. Đ. N.

 

   

      彎,

      閒。

      上,

椿      間。

      月,

      山。

      熟,

      蠻。

  

 

LỮ THỨ HOÀI THUẬT

Chu trình khúc khúc hựu loan loan, 

Vạn lý giang thiên lữ huống nhàn.

Phong bệ đài đầu hồng nhật thượng, 

Xuân đình cử mục bạch vân gian. 

Thư hoài tĩnh tự tam canh nguyệt, 

Hương tứ đa ư lưỡng ngạn sơn.

Thuỵ khởi bồng song trà chính thục, 

Tác ngâm hà xứ điểu mân man.

Vũ Huy Đĩnh

____________________

- Trăng canh ba (tam canh nguyệt): đêm chia làm năm canh, do đó canh ba là lúc nửa đêm, chỉ đêm  khuya vắng.

 

Dịch nghĩa:

KỂ LẠI CẢNH LỮ THỨ

Quãng đường đi thuyền ngoằn ngoèo lại quanh co

Muôn dặm sông trời rỗi nhàn trong cảnh lữ thứ

Bệ cây phong kê đầu ngắm mặt trời đỏ phía trên

Đứng trong sân cây xuân đưa mắt nhìn đám mây trắng

Tấm lòng mong đợi thư nhà vắng lặng như trăng canh ba

Nỗi nhớ quê hương nhiều như núi ở hai bên bờ

Thức giấc bên cửa sổ thuyền trà hãm vừa chín tới

Một mình ngâm thơ thì chim đâu đó hót véo von.

 

Dịch thơ:

KỂ LẠI CẢNH LỮ THỨ

Thuyền đi uốn khúc lượn trùng khơi

Lữ khách an nhàn muôn dặm chơi

Trên bệ gối đầu xem ánh nắng

Trong sân tựa cảnh ngắm mây trời

Lòng mong thư tín như canh vắng

Nỗi nhớ quê hương tựa núi đồi

Thức giấc bên song trà chín tới

Ngâm thơ chim hót rộn vang trời.

  1. Đ. N.
  2. trechantrau

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét