Thứ Sáu, 6 tháng 6, 2025

TIỂU LUẬN của NGUYỄN THỊ MAI

 

TIỂU LUẬN của NGUYỄN THỊ MAI 

Cái tôi ở giữa trời và đất

(Giới thiệu tập thơ Ở giữa trời và đất – NXB Hội Nhà văn 20018  của nhà thơ Đoàn Văn Thanh)

                          NGUYỄN THỊ MAI

 mai_ao_vang

Không hiểu sao, tôi cứ hay ngẫm ngợi phán xét tên đầu đề mỗi khi cầm trên tay một tập thơ nào đó. Cứ nhìn soi chữ nghĩa, cứ ngắm nghía từ ngữ rồi tự hỏi vì sao lại đặt tên như vậy. Để rồi khi đọc xong tập sách, tôi thú vị nhận ra cái lý của người đặt tên.

Lần này được tặng tập thơ Ở giữa Trời và đất – tập thơ thứ 6 (NXB Hội Nhà văn) vừa phát hành của nhà thơ Đoàn Văn Thanh, tôi vẫn những câu hỏi soi xét ấy. Và quả là thú vị khi tôi ngộ ra những gì tác giả gửi gắm trong từng con chữ. Tôi nhận ra Ở giữa trời và đất là cái tôi – Một cái tôi rất rõ ràng, trong sáng, đầy trách nhiệm làm người.

Mở đầu tập thơ, như mở cửa một ngôi nhà, ta bắt gặp “lời chào” bằng bài tứ tuyệt như để giới thiệu về gia chủ của chính ngôi nhà ấy: Nhiều lần định nghĩa mình/ Vẫn không ra lời giải/ Tóc cứ trắng vô tình/ Chỉ cỏ xanh mãi mãi (Tự vấn). Vâng, cái tôi trong tác giả đã xuất hiện ngay phút đầu gặp gỡ. Tưởng như ngu ngơ, mơ hồ, tưởng như anh không rành rẽ về mình… nhưng rồi lần lượt các bài thơ hiện ra, chữ nghĩa tâm sự với ta bằng những lời nhẩn nha thủ thỉ thì ta như hiểu rõ mọi điều: Cái tôi ấy là cả một nỗi niềm suy tư, trăn trở về con người và cuộc đời mà chúng ta đang sống.

Trước hết, cái tôi trong thơ Đoàn Văn Thanh không cô đơn. Nhưng tại sao anh có câu: “Giữa chốn đông người lại cô đơn”?(Nhận diện). Nỗi cô đơn anh đề cập ở đây là cái nhìn của người đứng ngoài mà nhìn vào vũ trụ. Sắc sắc không không, tưởng mây mà khói, tưởng hoa mà lá, tưởng rồng mà cá…anh nhận ra cuộc đời cứ lẫn lộn thật giả đến đắng cay: Tưởng rằng cõi thực mà xa/ Cầm tay cõi ảo hóa ra lại gần (Cỏ biếc). Vì đứng xa, đứng ngoài mà nhìn vào hiện thực nên nhà thơ nhận diện rất rõ cái đảo lộn của những giá trị: “Cây thuốc cứu người thì vàng vọt/ mà sao cỏ dại nhởn nhơ xanh” (Cây thuốc và cỏ dại). Con người một khi chẳng biết tin ai, chẳng biết tin vào đâu thì quả là cô đơn. Ấy là nỗi cô đơn của kiếp người. Nhận ra nỗi cô đơn ấy chẳng phải cũng đau đớn lắm sao? cho dù anh tự an ủi: “Quên đi thế thái nhân tình” (Cỏ biếc) nhưng anh lại không thể nào quên nổi, bởi anh là nhà thơ, mang trong ngực trái tim nhạy cảm, mong manh, dễ tổn thương trước sự đời.

May sao, từ cái nhìn nhân thế, cái tôi trong thơ Đoàn Văn Thanh là cái tôi biết mình đứng ở đâu. Không phải ngẫu nhiên mà trong tập thơ có tới 6 bài anh nói về cỏ. Con người ta khi biết mình, biết đời, khi sống khiêm nhường cũng hay nghĩ đến những thân phận nhỏ nhoi, bé mọn. Cỏ là một trong những điều thơ Đoàn Văn Thanh hay đem ra ngẫm ngợi. Cái thân phận nhỏ yếu sống là là mặt đất ấy cũng khát khao lên cao, bay bổng, có khi nhởn nhơ xanh hoang tưởng về mình. Nhưng bản chất của cỏ là trường tồn vô tư với thời gian trước mọi sự úa tàn: “Chỉ cỏ xanh mãi mãi” (Tự vẫn) và cỏ gần gũi với nỗi đau nhân tình: “Dưới kia xác những hầm hào/ Bao nhiêu xương trắng máu đào nằm đây/ Nhẹ thôi cho cỏ mọc dầy” (Viết ở đồi A1). Bởi cỏ biết mình đứng ở đâu và bình tâm với vị thế đó. Phải trải qua mất mát, đau thương, phải từng trải cuộc đời, nhà thơ mới ngẫm ra điều ấy. Và anh an nhiên chấp nhận cỏ, đứng với cỏ, hòa với cỏ vào cuộc đời và tình yêu của mình: “Ở giữa đất và trời/ Ta và em/ Và cỏ!”. Để rồi anh sung sướng nhận mình là cỏ, thanh thản với hạnh phúc giản dị nhưng vững bền: “Ta làm cỏ biếc cho mình ngả lưng”. Câu chữ hàm xúc, chắt lọc nhưng mở ra chiều sâu ý tứ. Giữa một thế giới to lớn mông lung đầy phức tạp và ghê gớm kia, thân phận con người mong manh làm sao nếu như không hòa đồng, không bám vịn vào tình yêu, vào những gì mình có thì phỏng có tồn tại vững bền?

Vậy nên, đọc “Ỏ giữa trời và đất”, ta còn gặp một cái tôi tin yêu cuộc đời. Mặc dù trong thơ Đoàn Văn Thanh, cuộc đời được phản ánh với những giá trị bị đảo lộn, hiện thực cuộc sống còn ngổn ngang những bất công ngang trái: “Nhưng ban ngày cũng có lúc như đêm/ Ban đêm cũng có lúc như ngày” (Bản thể); “Loài chim chúa tể của trời/ Còn nghiêng ngó muốn giành mồi mặt đất” (Thế gian); và trên bàn cờ đời hôm nay “Tướng, sĩ, tượng, xe, pháo, mã/ vẫn vần xoay” (Đêm Côn Sơn); đời vẫn “nham nhở hư vinh” (Bệnh viện lúc giao thừa)… thì những câu thơ ấy vẫn rất ít so với nhiều câu thơ mang niềm tin yêu cuộc đời. Phải chăng đó là tấm lòng bao dung nhân hậu mà chỉ có những người đã ngộ ra quy luật tất yếu của đời sống xã hội mới có được? Ví như bài Giấc mưa (Tên bài thơ rất gợi và lạ), anh nhìn thấy trong cơn mưa của đất trời, con người và vạn vật được thỏa thuê hiện rõ bản thể. Điều quan trọng, từ cái nhìn ấy nhà thơ đã nhận ra giấc mưa kia cũng như giấc đời: “Đời người nóng lạnh/ Giấc mưa thôi mà”. Lời “tổng kết” nghe nhẹ nhàng, tưng tửng nhưng ngẫm ra thật sâu sắc. Hoặc bài “Ở giữa trời và đất”, nhà thơ nhận ra những cái tưởng như đẹp vĩnh hằng, uy nghi bất tử nhưng cũng ngã, cũng vấp, cũng rụng rơi tan rã… cuối cùng chỉ những cái bình dị, gần gũi với đời thường là bền vững. Ngoài ra, trong các bài Trái đất, Học, Bản thể, Nhận diện,Thế gian, Những dấu chân… cũng là sự phát hiện qua cái nhìn tinh tế, qua trải nghiệm cuộc sống của nhà thơ. Đó là những quy luật của đất trời, của xã hội, của con người, của lòng người…. ẩn trong mỗi hiện tượng, hành vi, tâm lý, ai cũng biết mà không ai phát hiện ra.

Chính vì nắm bắt được quy luật này mà người thơ vững vàng,: “Vách đá dạy vực thẳm/ Cảm nhận độ cao/ Không sợ thấp” (Học), mà người thơ ung dung tự tại với mình: “Một ngày đẹp trời/ Tôi ngửa mặt/ Đỉnh núi cười vào tôi/ Đám mây cười vào tôi/ Trời cứ cao vòi vọi” (Vũng nước), mà người thơ tin yêu cuộc đời: “Bạc đầu/ Sóng vẫn đam mê/ Dẫu tan nát/ Vẫn vỗ về bờ xanh”. Thơ Đoàn Văn Thanh là thế, không ồn ào với những lời to tát, điều chiêm nghiệm anh vùi trong câu chữ. Cứ đọc kỹ, cứ ngẫm ngợi vào lúc lòng ta tĩnh lặng mới hiểu hết ý tứ nhà thơ gửi gắm.

Và còn đây nữa, cái tôi trong “Ở giữa trời và đất” là cái tôi trách nhiệm làm người, làm thơ.

Thật vậy. Thơ Đoàn Văn Thanh nặng chất thế sự. Có khoảng ba phần tư bài thơ và nhiều câu thơ trong tập đã nói lên điều đó. Thơ thế sự của anh đau đáu nỗi niềm nhân thế và day dứt nỗi đời, như các bài: Thế gian, Viết ở nhà tù Phú Quốc, Với bùn, Chim cu gáy, Học, Viết ở đồi A1,Bản thể, Ếch nhái và thánh thần, Nếu có ngày tận thế, Vũng nước, Cây lưu niệm, Những dấu chân… vấn đề trong các bài thơ trên không phải chỉ phản ánh hiện thực còn đầy rẫy trớ trêu, vô tâm, bất công hoặc khổ đau, mất mát mà cái chính tác giả muốn gửi gắm một thông điệp quan trọng: Trách nhiệm làm người với cuộc sống hôm nay. Đó là nâng niu những gì mình có, biết hướng thiện, biết chia sẻ, đồng cảm, biết vị tha nhân hậu và không vô cảm với nỗi đời: “Ngọt ngon vứt lại … vẫn mình/ Chỉ mong tách vỏ… hành trình kiếp sau” (Hạt), “Công viên mọc chốn sương mù/ bàn chân sơn nữ biết ru đá mềm” (Đá vọng). Còn nhiều ví dụ tâm đắc, nếu bạn đọc có tập sách trên tay sẽ thấy rất thú vị. Riêng với trách nhiệm sáng tạo,  Đoàn Văn Thanh luôn chia sẻ những suy tư trăn trở về thơ. Đặc biệt anh sùng kính cái đẹp, tôn vinh quyền năng thi ca. Điển hình là các bài Trước giấy trắng, Gọi trăng, Thi nhân mưa đón đi rồi, Ngàn năm hồn Việt… anh thiêng liêng nghiệp văn chương tự mình dấn thân và tự tin tuyệt đối: “Trang sách cõi tu đấy chứ/ Tin yêu thì đến bến bờ/ Mỏng mảnh từng trang số phận, Mảnh nào ai đợi, ai chờ/ Đã vào đền thiêng thờ chữ/ Mai này hồn chẳng bơ vơ” (Trước giấy trắng).

Và cuối cùng là cái tôi trong tình yêu. Thơ tình yêu trong tập Ở giữa trời và đất không nhiều. Khoảng 9 bài. Nhẹ nhàng, trong trẻo, trẻ trung. Có buồn nhưng buồn man mác. Có cô đơn nhưng thoáng qua, nhẹ nhàng, vừa đủ để lắng nỗi yêu. Bài Ngày em đi có dùng các từ như: tan nát, lễnh loãng, đểnh đoảng, chao chát, giọt cà phê tắc nghẽn, ghế trống không… thể hiện nỗi cô đơn, nhớ mong… nhưng chỉ như một tiếng thở dài chứ không não nề khiến người trong cuộc yêu hơn vẻ đẹp của tình yêu.

Như vậy, với số lượng 45 bài thơ, tập thơ Ở giữa trời và đất của Đoàn Văn Thanh vừa đủ độ để bạn đọc thưởng thức và suy nghĩ một hơi không mệt mỏi. Tập thơ đã tập trung vào hai mảng đề tài: Thế sự cuộc đời và Tình yêu. Với những câu thơ khúc triết, kiệm lời mà giàu chất suy tư, nhà thơ đã chia sẻ, bộc bạch được nỗi niềm, gửi gắm được nhiều ý tưởng sâu xa khiến người đọc đồng tình tâm đắc. Các bài lục bát viết nghiêm vần luật, mượt mà, tình cảm. Những bài theo thể tự do thì phóng túng chữ nghĩa, không gò bó tâm trạng, không câu nệ vần luật nên ý tứ được biểu đạt, cảm xúc được thăng hoa. Đặc biệt thơ Đoàn Văn Thanh có nhiều câu thơ có thể tách riêng ra khỏi bài thơ, đứng một mình mà vẫn khái quát được một vấn đề, chiêm nghiệm được ý tưởng rất hay, rất trọn vẹn. Ví như:

  • Tưởng rằng cõi thực mà xa

Cầm tay cõi ảo hóa ra lại gần

  • Đã yêu yêu đến dại khờ

Dẫu không tách vỏ cũng chờ xanh cây

  • Thời gian không vị, không màu

Mà mài trắng tóc mà nhàu thịt da

                  -Quê mà thơm thảo, thành danh

Kém gì hương vị thị thành cao sang…

Không cần ghi chú tên bài, cứ đọc các câu thơ đó lên, bản thân nó đã hoàn thiện một thông điệp gửi gắm với đời. Rất hàm xúc, có giọng điệu riêng, có điệu hồn riêng. Ấy là cảm nhận khi đọc “Ở giữa  trời và đất” của nhà thơ Đoàn Văn Thanh.

 

Thanh Xuân, tháng 5/ 2018


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét