Thứ Sáu, 13 tháng 6, 2025

ĐƯỜNG ĐỜI ĐƯỜNG VĂN HÀ PHẠM PHÚ

 ĐƯỜNG ĐỜI ĐƯỜNG VĂN HÀ PHẠM PHÚ

ANH CHI

anh_chi_1
NHÀ THƠ ANH CHI

Hà Phạm Phú sinh ngày 15/9/1943 trong một gia đình nông dân ở làng Hạ Đan, xã Đan Hà, huyện Hạ Hòa, một vùng quê hẻo lánh thuộc tỉnh Phú Thọ, nên tuổi thơ của anh ít điều kiện được học hành chu đáo. Mãi đến sau ngày hòa bình lập lại mới được cắp sách đến trường, rồi khi lên học ở trường cấp III Hùng Vương, Hà Phạm Phú mới có điều kiện tiếp cận văn học. Đặc biệt, sự cuốn hút rất lớn bởi những bài thơ của Xuân Diệu, sáng tác văn chương trở thành niềm say mê lớn đối với anh. Thời đoạn đó rạp chiếu bóng thị xã Phú Thọ cũng đã chiếu những bộ phim nổi tiếng của Liên Xô như Số phận một con người, Khi đàn sếu bay qua… Sau một buổi tối được xem bộ phim Bài ca người lính Hà Phạm Phú đã thức suốt đêm để viết bài thơ đầu tay Chiến tranh và tuổi trẻ, những câu thơ trữ tình khác hẳn thơ của Xuân Diệu, cũng không giống thơ ca của các nhà thơ đương thời: Chiến tranh là đoàn tầu của thần chết/ Gửi lại những nhà ga xác chết người dân. Có thể nói, bởi xúc cảm đột ngột, không bị ảnh hưởng gì về nghệ thuật thơ ca của nhà thơ nào, với sự bồng bột của tuổi 16 Hà Phạm Phú viết những câu, chữ từ chính từ tâm hồn mình trào ra:
Người con trai như mầm non trước gió
Thần chết đuổi đến đường cùng bèn lớn vụt lên
Nơi tuyệt vọng đã tìm ra bản ngã
Nuôi lớn anh hùng bao bà mẹ không tên
Vào quãng thời gian Hà Phạm Phú bắt đầu viết những bài thơ đầu tay của mình cũng là những năm quê hương, đất nước bước vào giai đoạn dồn hết sức người sức của cho công cuộc chống xâm lược Mỹ, nên Hà Phạm Phú tình nguyện nhập ngũ, đi đánh giặc. Một thời gian ngắn sau, với thành tích chiến đấu, anh được cử đi học về kỹ thuật quân sự, và lại một lần nữa anh không có điều kiện tiếp xúc với văn chương, phải tạm gác nó lại để làm cán bộ giảng dạy tại trường Đại học Kỹ thuật Quân sự. Tuy nhiên, theo quy luật của nghệ thuật văn học, đã có nỗi đam mê thì dù có duy ý chí cố nén nó xuống đáy lòng thì đến một lúc nó lại sẽ bùng lên khiến không gì cưỡng lại được. Đối với Hà Phạm Phú cũng vậy, khi đã thành nghề giảng dạy Kỹ thuật Quân sự, chính là lúc anh bắt đầu có được thời gian để bày tỏ cõi lòng mình bằng văn chương. Và như được bùng phát xúc cảm, trong một thời gian không dài, Hà Phạm Phú liên tiếp xuất bản các các phẩm: Hương nắng tiếng chim (tập thơ in chung,1982); Sĩ quan trung đoàn (tập truyện, 1985); Dốc Yên Ngựa (truyện vừa, 1988); Em phải sống (tiểu thuyết, 1990)… Với những tác phẩm văn, thơ đó, thực sự là một đóng góp đáng kể cho đời sống văn chương, vậy nên anh được quân đội đưa về làm ở báo Quân đội Nhân dân, rồi anh trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Đây là thời gian sức viết của Hà Phạm Phú rất dồi dào, ngoài nhiều bài báo trên tờ Quân đội Nhân dân, anh còn cho xuất bản các tác phẩm: Đắng chát và ngọt ngào (tập thơ in chung,1991); Lữ quán (tiểu thuyết, 1992)); Bông hồng đen (tập truyện, 1995); Chuyện người làng Đan Hạ (tập truyện, 2001); Trăng khuyết (tập thơ, 2004). Hà Phạm Phú thường nói với các bạn văn rằng, nhiều năm làm phóng viên báo Quân đội Nhân dân, đi sâu vào đời sống bộ đội, qua các chiến trường, đến với đồng bào các dân tộc miền xuôi, miền núi… Cuộc sống phong phú đa dạng và phức tạp với biết bao vấn đề đã cuốn hút, thôi thúc anh dấn bước trên đường văn chương, gắng sức để tạo nên những giá trị nhân bản, vẻ đẹp nhân văn khả dĩ đóng góp cho nền văn học nước nhà.
Là một nhà văn luôn bị cuộc sống đa dạng và phong phú mà anh trực tiếp nếm trải thôi thúc ngồi vào bàn viết, nên các tác phẩm của Hà Phạm Phú luôn bám sát được những vận động tươi mới của đời sống văn chương. Vậy nên khi nền văn học nước ta bước vào cao trào đổi mới mạnh mẽ, anh đã nhanh chóng cho ra đời một số truyện ngắn, đặc biệt là tiểu thuyết Em phải sống và tiểu thuyết Lữ quán miêu tả sâu nội tâm nhân vật để người đọc hiếu thấu về thân phận người, khiến tư tưởng nhân bản trong tác phẩm của anh dễ thấm vào lòng độc giả. Đơn cử tiểu thuyết Lữ quán, nhân vật chính là Việt đầy sức cuốn hút người đọc bởi cá tính ngang tàng, trọng nghĩa khinh tài, thường can thiệp vào nỗi bất hạnh của người khác để giải thoát họ!... Có thể nói, Hà Phạm Phú đã tự tạo cho mình một cá tính văn chương khá riêng biệt, là điều không phải người viết nào cũng làm được!
***
Đến nay, đường đời và đường văn Hà Phạm Phú thực sự đã thật dài. Nhiều nhà nghiên cứu phê bình văn học như Cao Phong, Trần Mạnh Thường, Bùi Việt Thắng, Hữu Thỉnh, Phạm Ngọc Chiểu…đã ghi nhận gần ba mươi tác phẩm (cả thơ và văn) mà Hà Phạm Phú đã tạo nên dọc đường đời, đường văn của mình. Riêng tôi thấy cần thiết phải nhìn nhận kỹ lưỡng đến tác phẩm vừa xuất bản tháng 1/2024 là tiểu thuyết Kính chiếu thời gian mà anh hoàn tất khi vào tuổi 80. Rất đặc biệt, thiên tiểu thuyết 350 trang in khổ 16x24cm này vừa cho thấy sự hình thành phẩm chất, cuộc dấn bước trên đường văn của chính tác giả, và vừa phản ánh khá sâu sắc đời sống chính trị xã hội trong nước và quốc tế cũng dài dặc suốt đường đời Hà Phạm Phú!
Kính chiếu thời gian kể về cuộc sống của nhân vật Hải Phạm từ thời thơ ấu cho đến tuổi xưa nay hiếm. Được sinh ra trong một gia đình nông dân ở làng Hạ Đan thuộc tổng Đan Hạ Thượng, tỉnh Phú Thọ nơi có những rừng cọ, giống cây đặc sản rất lạ lùng, mỗi tháng chỉ nở thêm ra một lá mỗi năm chỉ cao thêm mấy tấc. Ông bà, cha mẹ Hải Phạm là những thế hệ khai hoang lập làng; và ngay từ niên thiếu Hải Phạm cũng bắt đầu sống theo truyền thống của gia tộc là ham học nên có chữ nghĩa. Chuyện đời sống vùng trung du Phú Thọ với những biến động xưa trước Hải Phạm được nghe bà kể, cả những chuyện sau Cách mạng Tháng Tám; chi tiết hơn là các chuyện học Bình dân học vụ, chuyện Cải cách ruộng đất với những thăng trầm trong cuộc sống người cha…là diễn tiến trong quãng ngày niên thiếu của Hải Phạm đã thấm rất sâu vào tâm trí chàng trai sớm yêu thích thơ văn. Có thể thấy, cuộc sống quãng đầu đời của Hải Phạm, ngay từ phần đầu tiểu thuyết Kính chiếu thời gian nhà văn đã viết rất thành thạo theo lối văn chương phong tục mà những danh tài lớn như Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao đã xuất sắc tạo nên đầu thế kỷ 20 và cuối thế kỷ 20 Lê Lựu đã rất thành công trong tạo dựng những tiểu thuyết về đời sống nông dân vùng quê Hưng Yên. Nhân vật Hải Phạm hiện lên sinh động cùng bối cảnh thiên nhiên đầy hương vị và trong đời sống với những phong tục thật thuần phác của miền trung du. Qua phương pháp cha Hải Phạm tìm nguồn nước để đào giếng trên vùng đồi; qua những lần Hải Phạm theo cha vào rừng thu hái lá cọ… người đọc dễ dàng bị cuốn theo giọng văn phong tục của Hà Phạm Phú, xin ví dụ một đoạn viết về Hải Phạm: “Hồi còn đi học đã có tư chất một người làm báo, anh đã ghi chép không ít về cây cọ. Quả cọ ỏm ăn có đủ vị thơm bùi và béo… Hạt cọ tự nhiên rơi vãi khắp vùng đồi, sẽ không ít cây cọ mọc lên, sinh sôi duy trì nòi giống. Vào giữa giữa thế kỷ 19 cây cọ đầu tiên được phát hiện ở Việt Nam. Có thể coi cây cọ là của trờì cho...”
Có thể nói, lối Văn phong tục của Văn học Việt nam ta Hà Phạm Phú đã tiếp thụ được rất đắc dụng trong phần mở đầu tiểu thuyết Kính chiếu thời gian. Tình dân tộc, nghĩa đồng hương trong đời sống làng Hạ Đan thật sâu đậm, thơm thảo trong từng trang văn. Ngay trong quãng ngày người Hạ Đan sống kham khổ và dám hy sinh cho cuộc chiến tranh chống xâm lược Pháp, và qua những éo le phận người, sự oan khuất trong cuộc Cải cách ruộng đất… tất cả được hiện lên qua nhân vật Hải Phạm trong quãng đời còn vị ở tuổi vị thành niên. Chuyện những con người cực nhọc, đau thương, bức bí đến mấy cũng được xoa dịu, an ủi bởi ngôn ngữ văn chương nhuần nhị và đầy lòng vị tha. Người đọc có lúc bức bối, thấy lo lắng hoặc muốn phẫn nộ, nhưng rồi, sau từng đoạn nội dung câu chuyện, lại hiểu ra rằng, rồi người Hạ Đan sẽ tìm thấy được cách vượt qua và vươn lên, để sống!
Quãng đời tiếp theo của Hải Phạm từ năm 18 tuổi, học xong phổ thông trung học, tình nguyện đi bộ đội để chống Mỹ cứu nước. Trong số tân binh từ Đan Hạ Thượng, Hải Phạm được chọn vào lính không quân, tới trường đào tạo lái máy bay ở Cát Bi, Hải Phòng. Rồi ngay sau đó được đưa về trường Văn hóa Quân đội, học về văn hóa và ngoại ngữ, để đi du học ở Liên Xô. Chỉ được một thời gian ngắn, bất chợt anh được chuyển thành lính Trung đoàn Thủ đô và lại chuyên chú vào luyện tập các kỹ năng chiến đấu trên bộ. Và rồi, Hải Phạm lại được điều đi Liên Xô học tại một trường Quân sự ở Kiev, Thủ đô nước Cộng hòa Ucơraina. Nhưng mới học tiếng Nga được sáu tháng thì đùng một cái, lại có lệnh về nước với lý do là để học Nghị quyết 9, là Nghị quyết về chống Chủ nghĩa xét lại Khơrutsôv (Tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Xô thời ấy). Sau đợt chỉnh huấn đó, Hải Phạm lại được chuyển sang học tiếng Trung, rồi đi du học tại Học viện pháo binh Nam Kinh, Trung Quốc. Đến năm 1969, anh tốt nghiệp, thở thành Kỹ sư thiết kế và chế tạo pháo binh, được phong hàm thiếu úy, rồi về giảng dạy tại Trường Đại học quân sự. Vậy là mười năm trời, từ làng quê Hạ Đan, đường đời Hải Phạm vòng vèo tới Hải Phòng, Hà Nội, Lạng sơn qua các bước đào tạo, từ không quân sang bộ binh đến kỹ thuật quân sự; lại còn qua những vùng đất bao la thuộc Liên Xô và Trung Quốc… Kết cục, từ một học trò khao khát tri thức và say mê văn chương đã trở thành giảng viên đại học dạy về Kỹ thuật quân sự. Tôi nghĩ, nếu bạn đọc Kính chiếu thời gian có một chút quan tâm đến tác giả, dõi theo số phận nhân vật Hải Phạm đến đận này, chắc có thể hiểu như tôi rằng, chuyện về Hải Phạm là chuyện đời nhà văn Hà Phạm Phú. Với kinh nghiệm văn học của mình, tôi cho rằng tiểu thuyết này là một tự truyện được nhà văn viết với cấu trúc một thiên du ký khá hiện đại!
Cùng với cấu trúc như một thiên du ký, lối văn phong tục vẻ như được phát triển mới mẻ hơn trong Kính chiếu thời gian. Là nhân vật chính trong thiên du kí, Hải Phạm đi du học mà có phần như được thăm thú những đất nước, những dân tộc thuộc Liên Xô, Trung Quốc. Hải Phạm bộc lộ nhiều xúc cảm và suy ngẫm về phong tục, tính cách, lối sống của những con người mà anh gặp gỡ trong cuộc “thăm thú”, chung sống, chia sẻ với họ những buồn vui. Thông qua nhân vật chính Hải Phạm, nhà văn luận thêm về lịch sử, khiến người đọc hiểu chiều sâu nguồn gốc cùng tiến trình đấu tranh và phát triển của dân tộc và đất nước ấy. Đặc biệt, qua xúc cảm và suy ngẫm của Hải Phạm, tác giả thiên du ký cho người đọc hiểu thêm lịch sử sâu thẳm của các triều đại phong kiến Trung Hoa, cách họ đối với nhau, thái độ và hành xử của họ đối với văn hóa và lãnh thổ của dân tộc Việt ta!.. Đọc Kính chiếu thời gian, ta thấy rõ, tác giả Hà Phạm Phú có một tri thức rất sâu rộng về văn hóa - sử, và có cách nhìn minh triết về cuộc sống đương đại! Tuy nhiên, trên tất cả những thủ pháp nghệ thuật ngôn từ của tác giả tôi nói tới ở trên như sử dụng lối văn chương phong tục, cấu trúc tác phẩm theo thể tự truyện, dẫn chuyện theo kiểu du kí, thì Kính chiếu thời gian là thiên tiểu thuyết sử thi. Thiên sử thi đích thực này viết với phong thái văn chương khá hiện đại, thể hiện những chuyện đời sống diễn ra trong thời gian dài hơn nửa thế kỷ và không gian rất rộng, từ một làng quê miền trung du Phú Thọ, qua nhiều vùng đất trong nước ta cho tới các quốc gia rộng lớn, nhiều dân tộc từ Đông Á sang Âu Tây.
Tạo tác thiên sử thi có vóc vạc rộng lớn như vậy, Hà Phạm Phú còn dùng một ngón nghề nữa rất đắc dụng, là trộn lẫn tư liệu (để nói về những diễn biến lịch sử thực) với nghệ thuật hư cấu (để tạo không gian sống động cho nhân vật) nhằm tăng xúc cảm văn chương để cuốn hút người đọc. Bởi thế, qua việc nhân vật ghi chép riêng tư như viết nhật kí, nhà văn suy ngẫm và thầm bày tỏ chính kiến trước những vấn đề lớn về chính trị - xã hội gay gắt ở tầm quốc tế, như sự kiện bất đồng tư tưởng giữa Trung Quốc và Liên Xô thời kỳ “chống Chủ nghĩa xét lại của Khơrusôv”; hoặc sự kiện Đại cách mạnh văn hóa ở Trung Quốc. Xin trích dẫn một đoạn nhân vật Hải Phạm nhận xét về Cách mạng văn hóa ở Trung Quốc: “Chủ tịch Mao không chỉ tham vọng vô biên, mà nhiều thâm mưu kế hiểm, trên đường đi lên của ông, vượt qua những Cù Thu Bạch, Trần Độc Tú, Trương Quốc Đào, Vương Minh, Cao Cương đã trải biết bao xác chết… Đại cách mạng văn hóa là một cơn cuồng phong chính trị. Đội quân xung kích trẻ nít của Chủ tịch Mao, được bộ máy tuyên truyền của ông nhồi sọ, thôi miên chính trị, chỉ biết có Chủ tịch Mao là duy nhất, đã theo mệnh lệnh của ông phá tan cơ quan dân chính đảng, làm tê liệt toàn bộ hệ thống pháp luật của nhà nước. Trong cái cuồng loạn của đám đông, thì dân chúng bị cuốn theo chẳng khác gì đồ vật bị nước lũ cuốn theo”. Và nữa, quãng ngày nhân vật Hải Phạm là phóng viên báo Quân đội Nhân dân, có thể đưa những tài liệu tác chiến hay nguyên văn những trang sổ tay phóng viên vào tiểu thuyết. Nhờ vậy, những trang tư liệu sống động không khí chiến trường khiến người đọc tiếp cận ngay với những diễn tiến cuộc Tổng tiến công lịch sử năm Mậu Thân 1968, mùa hè đỏ lửa tại “cối xay thịt” Thành cổ Quảng Trị năm 1972, cuộc Tổng công kích giúp nước bạn Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng Pôn Pốt, rồi cuộc chiến đầy đau thương bảo vệ biên giới phía Bắc khi quân Trung Quốc tràn sang đánh phá nước ta ngày 17/2/1979 và kéo dài mười năm tiếp theo nữa. Xin trích đoạn Hải Phạm ở mặt trận Vị Xuyên, năm 1984, khi đang từ huyện đoàn xuống xã“thì gặp một bà mẹ người Tày, tóc bạc trắng, chộp lấy cánh tay anh, nước mắt giàn giụa, kêu lên hai tiếng con ơi. Hải Phạm sững người. Anh dừng lại, nhìn bà nẹ, nói con đây, có gì vậy mẹ? Bà mẹ mếu máo nói, hy sinh nhiều lắm, quan tài đưa về đặt chật ngoài quảng trường”…
Những trang viết về diễn biến chính trị tại các nước có quan hệ hữu hảo với ta, về chiến tranh giành độc lập dân tộc, về chiến tranh bảo vệ lãnh thổ đất nước trong thiên tiểu thuyết sử thi Kính chiếu thời gian khiến người đọc động não và cả động tâm rất nhiều. Không chỉ thế, trên những chặng đường đời bôn ba và không ít sóng gió, nhân vật Hải Phạm ngày một hoàn thiện hơn một tâm hồn đa cảm, giàu tình thương yêu cái đẹp cùng một trí tuệ mẫn tiệp, phong phú. Những bóng hồng gặp trên đường đời là tất yếu đối với một chàng trai hào hoa như Hải Phạm. Bóng hồng đầu tiên là Bích, cô giữ trẻ ở Đan Hạ Thượng, chàng từng mua tấm bưu thiếp in hoa và nắn nót viết câu thơ chợt nghĩ ra, tặng Bích: Em giống khung trời vuông như in/ Đêm đêm anh ngước nhìn. Tiếp nữa là cô Nađia dạy tiếng Nga cho du học sinh Việt Nam ở Kiev có thân hình gợi cảm và cặp đùi thật đẹp. Thế rồi một hôm cô gặp riêng Hải Phạm, nói tôi sẽ rất buồn vì bạn không học ở Kiev mà sẽ chuyển đi nơi khác. Hải Phạm nói, không gian không thể ngăn cách. Khi phải về nước học nghị quyết (Chống chủ nghĩa xét lại Khơrutsôv), Nađia ra sân ga đưa tiễn, tặng một bó hoa tươi… Hải Phạm nhìn thấy nơi khóe mắt cô hai giọt lệ, từ từ lăn trên má. Còn thời gian Hải Phạm đang học Kỹ thuật pháo binh ở Nam Kinh, Trung Quốc cũng đã gặp một bóng hồng tên là Uyên Nguyên. Từ cùng yêu thích thơ ca trong dó có thơ Đường hàm xúc và đa cảm, Hải Phạm và Uyên Nguyên gần gụi nhau. Một hôm, khi trò chuyện có nội dung chạm đến tình ái, Uyên Nguyên bước lên trước Hải Phạm một bước, quay mặt lại, hai tay nắm chặt tay chàng, lợi dụng bóng tối của rặng táo, gắn lên môi chàng một nụ hôn. Cảm giác đột ngột làm cho Hải Phạm sữmg người trong giây lát, rồi bất giác ghì chặt lấy nàng… Nhưng, bất chợt có tiếng hô đả đảo đâu đó, có lẽ người ta đang đấu những phần tử xét lại theo con đường Tư bản chủ nghĩa. Hải Phạm bừng tỉnh. Anh khẽ gỡ tay Uyên Nguyên, nói Việt Nam cấm yêu khi đang còn là sinh viên. Hải Phạm buộc lòng phải ứng phó với tình thế theo cách ấy… Những bóng hồng trên đường đời Hải Phạm là vậy, ngay cả trong không gian tưởng như yên ả, thơ mộng dành cho tình cảm riêng tư của con người cũng đang bị những toan tính chính trị của những thế lực ghê gớm phủ lên thật ngột ngạt!
***
Phần cuối Kính chiếu thời gian (Chương 11, Châu Âu) đã là chuyện của đầu thế kỷ XXI, nhân vật chính đã trở thành “ông Hải Phạm”. Phần này, tựa như phần “Vĩ thanh” của thiên tiểu thuyết sử thi. Đến chặng đời này, Hải Phạm đã có một gia đình với người vợ mà ông coi như “báu vật trời ban cho”, cùng những đứa con đã trưởng thành. Sau bao gian khó những năm sau chiến tranh, tới thời Đổi mới vợ Hải Phạm đi xuất khẩu lao động, rồi cũng gắng gỏi làm ăn nơi viễn xứ và cư ngụ luôn ở Praha, thủ đô nước Cộng hòa Czech. Tình sử của Hải Phạm được nhà văn viết giản dị, chân chất và khiến người đọc hiểu thấm thía đời sống riêng tư trong cuộc sống chung những năm gian khó bởi nền kinh tế còn chậm phát triển của người Việt ta. Phải sống nhẫn nại do thiếu thốn, nên tình đời sâu lắng, và cũng khao khát ngoi lên để có sự khấm khá hơn trong kiếm sống. Và, “Báu vật trời ban” cho nhà báo Hải Phạm phải đi xuất khẩu lao động ở châu Âu. Vâng, cách đi tha hương kiếm sống của nghười Việt ta đã có từ xưa. Ở đây, tôi chỉ nói tới những năm đầu thế kỷ XX không ít người Việt từng ôm hy vọng kiếm được chút dấn vốn nơi viễn xứ. Đương thời người ta gọi là “đi phu”: Đi phu đồn điền cao su (là tới những rừng thiêng nước độc chuyên trồng cây cao su), đi phu mỏ (là tới những vùng khai thác mỏ cả trong nước và nước ngoài). Những người Việt đi phu thời ấy cũng được một số nhà báo, nhà văn nhìn từ xa mà viết, đưa tin, nhưng chưa có nhà văn nào trực tiếp đi phu thực mục sở thị để viết về dân phu Việt nơi viễn xứ. Đầu những năm tám mươi thế kỷ XX tình hình kinh tế xã hội nước ta nhiều khốn khó, hàng chục vạn người Việt (không kể người miền Nam trong thời kỳ đất nước tạm thời bị chia cắt và người vượt biên sau 30/4/1975) đã được chính thức đưa đến một số nước Đông Âu, như Liên Xô (cũ), Tiệp Kắc (cũ), Đức… như cách gọi mỹ miều khi đó là đi “hợp tác lao động”. Thực chất, họ là những người đi làm thuê và hầu hết đều hy vọng gây được chút vốn liếng để nuôi nhà, để chuẩn bị cho một tương lai khá hơn. Bước vào cuộc lao động kiếm tiền nơi xứ người trong môi trường cạnh tranh vừa bản năng vừa khốc liệt, kiểu cá lớn nuốt cá bé. Lịch sử nhân loại cho thấy, ở sác nước có nền công nghệp và nền kinh tế thị trường sớm hơn ta vài thế kỷ, từng có những cuộc cạnh tranh kiểu như vậy mà các nhà khoa học xã hội kinh điển gọi là “thời kỳ tiền tích lũy tư bản” hoặc là “giai đoạn tư bản cá mập”. Có khác chăng, người Việt đi làm thuê ở Đông Âu là một cộng đồng không lớn của một nước còn chậm phát triển, khi bước vào cuộc cạnh tranh để kiếm chút dấn vốn thì tính quyết liệt của nó ở giai đoạn đầu có vẻ vừa manh mún, nhiều cực nhọc, buồn tủi; nhưng sang đầu thế kỷ XXI đã có nhiều thành phần, nhiều nghề nghiệp hơn xưa trước và cũng hòa nhập có chiều sâu hơn với người sở tại. Vậy nên, đã có những nhà văn, nhà báo (như Trần Hiệp, Văn Vinh, Nguyễn Văn Thọ…) có điều kiện tiếp cận người Việt làm ăn nơi viễn xứ, rồi viết về họ, trong số đó, Hà Phạm Phú là một nhà văn tiêu biểu.
Với Kính chiếu thời gian, tác giả không chỉ chừng mực viết về những người Việt đi lao động xuất khẩu sống, bon chen nhau và ứng xử với nhau trong thời đoạn cuối thế kỷ XX lận đận, nhiều khổ não. Hà Phạm Phú viết về một tiến trình dài người Việt ta bắt đầu chính thức về mặt nhà nước tiếp cận đời sống các nước từ Á sang Âu qua nhân vật Hải Phạm. Có thể nói, cuộc trưởng thành trong trường đời Hải Phạm hơn sáu mươi năm là rất nhiều buồn vui, sướng khổ, nó cho người đọc thấy được những bài học thật lớn của người Việt ta thời đại Dân chủ cộng hòa và độc lập tự chủ, tự cường. Tính “tự chủ, tự cường” tôi nói tới ở đây không mang ý nghĩ nhận định phẩm giá của dân tộc Việt ta trỗi lên mạnh mẽ trong thời đại giành được Độc lập dân tộc và chiến tranh vệ quốc (1945 – 1975), mà với nghĩa hẹp hơn, là những nhân vật trong Kính chiếu thời gian đều đậm tâm tính đó nên làm lụng và sống khá giả ở các nước Âu Tây từ những năm 70 thế kỷ XX. Thời đó, chỉ chừng 10 ngàn người Việt là thực tập sinh và học nghề sang Đông Âu. Những năm 80 thêm những lao động xuất khẩu, người Việt tới làm lụng ở Cộng hòa XHCN Tiệp Khắc đã có chừng 30 ngàn. Sau khi Tiệp Khắc tan vỡ năm 1989, Cộng hòa Czech và Slovakia ra đời, người Việt đến lao động, buôn bán ở đây đã đông tới hơn 70 ngàn, khiến hình thành một cộng đồng người thiểu số đông hàng thứ ba của xứ sở này!... Trong đông đúc người Việt ở Czech đó, có ông Vọng vốn là một cán bộ tuyên huấn của Quân khu II thời chiến tranh Biên giới Việt Trung năm 1979, năm 1985 được cho đi xuất khẩu lao động ở Liên Xô (cũ). Đời lận đận, ông dạt sang Czech, buôn bán ở chợ, sau mạnh dạn làm chủ một tờ báo tư nhân của cộng đồng người Việt có tên là Người xa xứ. Nhưng rồi, trong môi trường cá lớn nuốt cá bé, ông buông bỏ nghề thông tin, làm nghề bán nước giải khát nhân trần, sống yên hàn những năm cuối đời. Và có một cậu bé, con của một cô gái Việt xuất khẩu lao động yêu mê một chàng người Tiệp Khắc và đặt tên nó là Tiệp. Tiệp bị cha không thừa nhận và mẹ bỏ rơi, nên sống lang thang trong các chợ. Người Czech trong chợ gọi cậu là thằng Việt Nam. Vậy là cậu có hai tên, nhưng chả biết tên thực của mình là gì. Cay đắng thế… Dẫu đã có tuổi, Hải Phạm vẫn còn nguyên cái máu văn chương là luôn ghi chép những sự đời, đặc biệt là quan tâm nhiều đến những phận người Việt lên voi xuống chó, và ghi chép cả những người Việt cùng người Âu Tây làm ăn buôn bán chân chỉ, nên thực sự phát đạt…
Trong phần tôi gọi là “Vĩ thanh” của tiểu thuyết Kính chiếu thời gian, nhân vật Hải Phạm hầu như chỉ để đi, nghe, nhìn và suy ngẫm. Và, chàng du sĩ Hải Phạm thật sự thấm thía rằng: Thời gian trôi đi, không có cách chi bắt nó quay trở lại, kể từ khi vợ ông đi sang Praha bán sức lao động để cứu giúp gia đình, vậy đã là hơn hai mươi năm. Nếu tính từ khi ông bà cưới nhau, năm 1972 thì non nửa thế kỷ. Thời gian đủ để vật đổi sao rời, để nước chảy đá mòn, để thay đổi nhận thức và cách nhìn, lại chỉ càng củng cố trong ông một điều, bà chính là vật báu trời ban, làm thay đổi số phận ông. Thưa bạn đọc, đó là điều nhân vật chính trong thiên tiểu thuyết ngộ ra những năm cuối đời. Như phần trên bài bình luận tác phẩm Kính chiếu thời gian này tôi đã hé lộ: “Chuyện về Hải Phạm là chuyện đời nhà văn Hà Phạm Phú, với kinh nghiệm văn học của mình, tôi cho rằng đây là một tự truyện nhà văn viết với cấu trúc một thiên du ký khá hiện đại”. Vậy nên, giờ có thể nói rằng nó là tác phẩm viết về đường đời, đường văn của Hà Phạm Phú. Vợ ông đi xuất khẩu lao động ở Tiệp Khắc (cũ) những năm đầu 1980, rồi ở lại sinh sống tại Cộng hòa Czech, những năm tiếp theo lại đưa thêm con cháu họ hàng sang làm ăn, lập thêm gia đình, sinh con đẻ cái, tới đầu thế kỷ XXI đã thành một gia hệ khá đông đúc. Đôi khi Hải Phạm tức Hà Phạm Phú sang Czech, vợ ông lại triệu tập, chúng kéo đến chật cả phòng khách. Có lần họ kéo cả ra rừng bạch dương liên hoan thịt nướng. Gặp những người sở tại đi dạo trong rừng vợ ông vui vẻ “Ahoj, ahoj!” (chào!). Lúc chiều muộn, trời trở lạnh, mấy đứa cháu cời than cho nóng lên. Một đứa cất tiếng hát bài “Gửi em Phú Thọ” của nhạc sĩ Thanh Phúc:
Kìa mái nhà ai đang tỏa khói lam chiều
Trung du ta đó mảnh đất ta yêu
Hỏi em cô gái đang chuốt cọ non
Duyên dáng cho ai chiếc nón đội đầu…
Về phương diện tự truyện, khi đến tuổi xưa nay hiếm được liên hoan thịt nướng trong rừng bạch dương Âu Tây cùng cả gia hệ của mình, cũng có thể gọi là được viên mãn trong đời. Và, được nghe lũ con, cháu sống ở trời Tây hát bài hát về quê cha, đất tổ gợi nhớ khói lam chiều, đồi cọ với cô gái chuốt lá cọ non làm cho ai chiếc nón đội đầu… càng thấy mối tình thâm của một người hơn nửa thế kỷ thường xa quê sống ở những nền văn hóa các dân tộc khác. Về phương diện tiểu thuyết, nhà văn Hà Phạm Phú đã kể cho người đời nghe thiên thiên sử thi dài hơn nửa thế kỷ, diễn ra từ vùng trung du Phú Thọ, qua nhiều vùng đất nước Việt Nam và nhiều đất nước, dân tộc từ Đông Bắc Á tới Âu Tây, trải thật nhiều biến động về chính trị xã hội và cả trong máu lửa chiến tranh. Hơn nửa thế kỷ ấy cũng là chặng đường lịch sử quan trọng dân tộc Việt ta từng bước vượt qua khó khăn, từng bước vượt qua khổ nạn để học hỏi, tiếp cận và hòa nhập với đời sống nhiều dân tộc, đất nước khác. Tôi cho rằng, đó chính là giá trị tư tưởng của thiên sử thi giàu tính nhân văn, bởi thực tế cho thấy, ngay sau sự nghiệp đổi mới, đời sống kinh tế xã hội của Việt Nam ta đã đủ khả năng chuyển thật nhanh sang thời kỳ hội nhập với nhân loại. Kính chiếu thời gian thực sự là tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp văn chương Hà Phạm Phú. Tôi đồng thuận với nhận định của nhà nhà văn Tống Ngọc Hân: “Càng về cuối cuốn sách, những câu chữ dẫu có lúc đanh thép lạnh lùng như nòng súng 57mm, có lúc mềm như lụa Hàng Châu, nhưng phủ lên đó là những vui buồn thăm thẳm…” Vậy nên, qua tác phẩm này bạn đọc sẽ hiểu thêm về đường đời và đường văn của tác gia Hà Phạm Phú!
Thanh Am, Long Biên tháng 3/2025
Anh Chi
trechantrau

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét