Thứ Hai, 9 tháng 6, 2025

XỨNG ĐÔI?

 

TRUYỆN NGẮN HỒ BÁ THƯỢC 

XỨNG ĐÔI?

HỒ BÁ THƯỢC

hoa_sung_1

 

      Làng An Hòa lọt thỏm giữa vùng lúa, gần với con đường sắt, ngày đêm tàu chạy ngược xuôi. Nhưng tại sao làng đứng lẻ loi, cách biệt với thế giới bên ngoài? Nếu làng có biến, cũng chỉ dân làng An Hòa biết thôi, người ngoài không ai hay biết điều gì xảy ra trong đó? Lí giải làng đơn độc, lẻ loi, người ta bảo do hạt thóc thừa của làng bên rơi nhầm, nên mới có làng An Hòa bây giờ. Đó là cách ví von có vẻ văn nghệ thôi, nhưng nghe thì ấm ức lắm. Còn nói toẹt ra, cái làng ấy chẳng chơi bời với ai bao giờ, chơi vơi như ngoài đảo khơi vậy. Đến nỗi đường liên thôn, liên xã làm gần đến nơi, họ cũng tránh đi lối khác. Thành thử An Hòa bây giờ, chỉ có một đường vào và một đường ra mà thôi.

Thực tình, dân làng đâu có muốn đơn độc với các làng khác? Chỉ riêng tên An Hòa các cụ ngày xưa muốn cho con cháu mình luôn được bình an, sống hòa thuận với mọi người. Nhưng từ khi có một gia đình bệnh hoạn, nảy nòi giữa làng, mấy làng xung quanh bảo nhau không chơi với làng ấy nữa. Nếu chơi với làng ấy, không sớm thì muộn, cũng bị lôi vào guồng bạo lực, chí ít con mụ què chửi cho mất mặt, xuống chín tầng địa ngục, cũng không dám gặp tổ tiên, ông bà.

Vốn dĩ, lúc đứa trẻ sinh ra không được bình thường. Nửa trên giống như bao đứa trẻ sơ sinh khác. Nửa dưới, bé có đôi chân lồng vào nhau. Khi nằm ngửa, vòng chân giơ lên trước mặt, khua khoắng. Kéo duỗi chân ra còn được. Buông ra, nó lại co về tư thế cũ, tựa như chiếc lò xo vậy. Lớn lên, lấy chồng sinh con, mụ vẫn giống đứa trẻ sơ sinh ngày nào. Đi lại, không bằng chân, mà bằng mông. Vận động theo kiểu ấy, đáng lẽ mông mụ phải to bằng cái thúng ấy chứ. Nhưng không, đít mụ vẫn teo tóp, đồng bộ với đôi chân quăn queo như cành nhãn khô, lùng nhùng trong cái “mấn” thâm nhạt màu.

Hình như trong làng, mụ chẳng có thâm thù với ai, các làng lân cận cũng thế. Với lại cả đời, mụ không ra khỏi nhà, thử hỏi có ai rỗi hơi đến nhà mụ để “mua thù, chuốc oán?”. Ấy vậy, mụ vẫn có hàng tá kẻ thù, khi gây chuyện, mụ lôi ra bằng hết. Mụ đặt nó ngồi trước mặt, rồi tăm tia từng người một, từ sáng tinh mơ cho đến đêm khuya. Mụ chửi rủa, nhiếc mắng, tục tĩu đến mức không sách vở nào dám ghi chép lại. Thật nực cười, dù không biết kẻ có lỗi với mình là ai, nhưng mụ ta ám thị vào bất cứ người nào, mụ muốn. Hàng xóm lắng tai, có phải mụ chửi nhà mình hay không? Nhưng ngẫm lại, đúng là mụ đang chửi nhà mình thật. Mặc dù vậy, vẫn phải im cho qua chuyện. Đúng là mũi súng thù địch, chĩa về nhiều phía. Tất cả những xác chết chôn vùi hàng mấy chục năm nay, cũng được mụ lôi lên, “tắc bọp” từng phát một. Đến cao trào, bắn hàng loạt như đạn ria. Từ anh em, cha mẹ, ông bà cụ kỵ năm đời, bảy đời. Hết nội sang ngoại, từ tây sang đông, từ trên trời rơi xuống, từ trong quần mụ mà ra… Cứ như thế, mụ vo viên rồi đập bét ra. Chán, mụ quấy lộn tùng phèo. Mụ gào lên, rồi như hết hơi, mụ bắt đầu khóc lóc, nài nỉ ai đó thương xót lấy mụ. Tay trưởng thôn lẩm bẩm:

 Thế cũng phải, chửi thề suốt ngày, suốt đêm cũng mệt lắm. Phải nghỉ ngơi lấy sức cho lần sau. Con người, chứ đâu có phải gỗ đá? Mà nữa, mụ cũng phải để cho bà con, chòm xóm nghỉ ngơi một chút chứ. Các cụ xưa thường dạy “người nói có người nghe”. Mụ chửi cũng như nói, dân làng đều nghe hết, cũng mệt mỏi như mụ. Mụ nghỉ dưỡng hơi, chòm xóm cũng được nghỉ sức. Xin cảm ơn. Xin cảm ơn.

Chưa dứt lời, bỗng nhiên bên nhà, lại có tiếng thét lên như xé vải:

- Cha tiên nhân nhà đời chúng mày, tổ tiên ông bà ông vải, cụ kỵ chúng mày…

Mọi người nhìn nhau, thất vọng. Có lẽ lần chửi này còn dữ dội hơn lần trước, khiến hàng xóm nghi ngờ về động thái của mụ: kéo sự chú ý của mọi người để thằng chồng đang lần mò, trộm cắp đâu đó kiếm ăn?

Mấy gia đình liền kề với nhà vợ chồng lão, chưa có hiềm khích gì với nhau, nhưng nghe mụ chửi cũng khiếp vía. Riêng tay trưởng thôn, bạo mồm hơn một chút, nhưng không quên liếc xéo sang nhà lão mù, nói nhỏ:

- Tôi đố các ông, lão mù năm nay bao tuổi?

- Không thể xác định được độ tuổi. - Mấy ông thì thầm - Nếu con trai nhà lão cởi trần ngồi bên nhau, bọn hắn từa tựa ngang nhau. Tất cả đều đen thui như thanh sắt, ngâm lâu ngày dưới ao . Chỉ có thể phân biệt được thằng bố nhỏ con hơn, hai mắt bị mù bẩm sinh, để lại hai hốc mắt sâu, đen sì. Bộ răng rụng hết phần da teo tóp lại giống mõm cầy hôi. Còn lại không thể phân biệt được rạch ròi giữa bố con nhà nó. Đại thể, chúng có tạng người gày, mặt choắt, môi thâm, mắt trắng dã, không ốm đau bao giờ. Tính lương thiện không rõ ràng, muốn ra tay lúc nào cũng được. Trong số năm anh em trai, có một thằng xăm trổ đầy người, có thể nhận ra ngay, vì nó là đại ca từ mỏ đá rubi vừa về.

May thay, năm đứa con gái nhà hắn, không đen đủi như đám con trai, nhưng ăn nói trơn tru, xảo trá đến mức cả làng cũng phải sợ. Giá như mấy cái miệng ấy cùng hòa âm, làng An Hoà đùng đùng như cháy nhà, đố ai ngăn cản được.

Cuộc tình của đôi “trai tài, gái sắc” này chưa thấy ai kể được rõ ràng. Nhưng kết quả tình yêu ấy họ cho ra đời mười người con. Một trai rồi đến một gái, cứ từng đôi một như vậy đến cô út cuối cùng. Các nhà nhân chủng học, tâm lý học, sinh lý học, sinh đẻ học… cũng phải bó tay bái phục. Việc “tắc bọp” một trai rồi một gái là chuyện hi hữu. Nhưng với con mụ què, không đứng được trên đôi chân của mình, mười lần mang thai, chửa đẻ vẫn “mẹ tròn, con vuông” cũng là một hi hữu nữa. Một lần bà hàng xóm vô tình vào nhà mượn cuốc, thấy bụng mụ ta to vượt mặt, ngồi bệt trên giường, hai tay chống phía trước như con cóc chửa đến ngày sinh nở, trông rất tội.

Việc đỡ đẻ cho vợ, thằng chồng mù làm lấy tuốt. Mười đứa con cũng chỉ mình hắn với nồi nước sôi nấu sẵn. Hễ sờ thấy cái đầu tròn tròn nhô ra là hắn túm lấy, lôi ra bằng được. Đến nỗi con vợ đang đau đớn vật vã, cũng phải trợn mắt lên vì kinh ngạc. Không biết chồng mình là thần y, hay đồ tể?

Có thể nói cuộc đời mụ, sống như một “Bà Hoàng”. Mụ không làm gì hết, ngoài việc ăn, đẻ, và chửi càn. Khoảng cách mụ đi từ giường ngủ, đến bếp nấu khép kín. Mùa đông khoảng cách ấy bị thu hẹp hơn, bởi mụ đã di chuyển từ giường nằm, xuống ổ rơm được quây ngay sát bếp. Vừa ấm thân ngọc ngà của mụ, cũng vừa tiện cho lão chồng ghé lưng, đang run cầm cập vì đi làm đêm, hay ngâm quá lâu trong ao chuôm hàng xóm, mỗi khi bắt trộm cá.

Việc ăn uống, chi tiêu tiền nong trong nhà, đều do lão chồng quản lý. Gà, vịt, ngô khoai lão gánh đi bán, xong việc, mua các thứ về nhà dùng. Đố ai lừa được lão về điều gì. Từ giá cả vàng bạc châu báu của thiên hạ, mệnh giá đồng tiền, từng con giống, giá cả lên xuống, người có hai con mắt hẳn hoi còn nhầm lẫn, nhưng với lão mù thì không.

Một tay nuôi mười hai miệng ăn cho cả nhà, dù còn thiếu đói, nhưng cũng đủ để nói rằng, người đàn ông trụ cột này gai góc, rất có bản lĩnh. Sự đói nghèo, bản năng sinh tồn, khiến gã làm ăn chăm chỉ, kiêm luôn việc trộm cắp để tồn tại, nuôi sống gia đình.

Thông thường mọi người làm việc ban ngày, ban đêm dành cho việc ngủ, nhưng lão thì không. Mặc dù sống cùng làng, nhưng ít ai thấy lão đi lại ban ngày lẫn ban đêm. Lão như có phép tàng hình, đôi tai thính hơn tai chó. Lão không chỉ đánh hơi, còn nhận biết người nào đó, chỉ nghe qua tiếng chân bước. Đêm đêm, những con chó đực đi tìm chó cái mà gặp lão, chúng chỉ đứng trơ ra, hít hít mùi ngai ngái trên người lão, không hề “gâu” một tiếng nào. Hình như giữa lão với lũ chó “thần giao cách cảm” hay có duyên nợ gì, chúng “nể” nhau đến lạ. Nếu chú chó nào ngu ngơ, dại dột đến gần, lão cột dây vào cổ, rồi cả hai “dung dăng, dung dẻ” dắt nhau vào quán thịt chó, trước khi trời sáng bạch.

Công việc đồng áng là sở thích của lão. Ruộng của lão, bao giờ cũng tốt hơn các ruộng xung quanh. Người ta thử tìm hiểu nguyên nhân, nhưng đành chịu. Hỏi, lão cười híc híc:

- Đêm các vị ngủ nứt mắt ra, còn tôi lăn lộn suốt, đừng bì?

 Sau này, người ta phát hiện lão đi ăn cắp nước, ăn cắp phân gio các ruộng khác ngoài đồng. Nếu ruộng bên có nước, thể nào lão cũng đánh cắp nước cho dù ruộng xa hay gần. Dẫn nước xong, xóa dấu vết trả lại mặt bằng. Sáng hôm sau chủ ruộng gần cạnh bên cạn nước, nhìn sang ruộng lão đầy nước, lòng uất nghẹn, không làm gì được.

 Ăn cắp phân gio lão làm đơn giản hơn: Đầu ruộng mở cho nước thông nhau, cuối ruộng khuấy cho phân gio nổi lên rồi tát sang ruộng mình. Xong việc hàn vá bờ, trả lại như cũ. Còn nếu ruộng nào vừa cày ải xong, phân gio đổ từng đống, lão sang gánh về, đổ ruộng mình.

Gần sáng, lão kết thúc làm đồng ra về. Gặp ao, lão xuống tắm, nhân thể bắt vài con cá ăn chơi. Cái tài của lão lên xuống ao, trơn tuồn tuột như lươn, không để lại một gợn sóng nhỏ nào. Bắt được cá, lão giết ngầm dưới nước, không còn sức quẫy đạp. Mọi việc diễn ra im lìm như chết. Cái giỏ của lão, lúc nào cũng đeo bên hông, dường như không còn chỗ chứa, lão về thẳng nhà.

Ở làng, người ta phong cho lão “vua mò cá” không ngoa chút nào. Lão chỉ để lại chút cá cho bữa ăn, còn lại đem xuống chợ bán. Mỗi đêm đi làm đồng như thế, lão kiếm được khối tiền nhờ hôm trộm lợn, trộm chó, gà, các loại nông sản khác…

 Chính lũ con của lão cũng phải thừa nhận, bố chúng là “cáo”, xếp vào hàng “cao thủ” trong việc cất giấu tài sản của mình. Đương nhiên, con cái lão đâu có phải đứa trẻ lên ba, dễ lừa gạt? Chí ít cũng tay anh chị trong giới giang hồ? Tiền của bố, không mất một xu, trong khi, lũ con khốn nạn, lúc nào cũng cần tiền? Chúng lùng sục còn hơn cả bọn Tây Đoan ngày xưa đi khám xét rượu lậu.

Thằng con thứ hai nổi tiếng trong giới giang hồ, lăn lộn từ mỏ rubi này rồi đến mỏ rubi khác với vai trò thủ lĩnh hay đại ca gì đấy. Hắn về làng mang theo một bị tiền và một cô vợ xinh như hoa hậu để ra mắt gia đình. Kể cũng lạ, cô gái xinh, cao ráo, da trắng, gái đẹp đất Tuyên thứ thiệt. Nhưng thằng chồng da đen, thấp hơn vợ. Đã thế mắt lại he hé. Căn nhà 3 gian 2 chái lợp rơm rạ, nóng hừng hực cùng một đống người cởi trần trùng trục, da đen như cột cháy, cô nàng sợ chết khiếp. Hôm sau thằng chồng tức tốc mua một căn nhà khác liền kề với nhà mình. Đó là nhà của một tay buôn gỗ bị phá sản để cho vợ hắn sống “cách li”, yên tâm chờ đến ngày sinh nở. Thằng anh bảo:

- Ở làng sắp có chuyện đấy, đừng đi vội.

- Chuyện gì?

- Nhiều chuyện lắm.

- Cụ thể?

- Chuyện đòi lại đất cát để xây chùa.

- Em không quan tâm. Em chỉ cần tiền và tình thôi. Nhờ bố mẹ trông giúp vợ em lúc sinh nở. Ngày mai em mang theo mấy thằng em cùng đi. Nơi ấy tiền và tình đang đợi em.

Tình và tiền ai cũng cần, nhưng phải xem số phận ra sao đã. Người ta nói lại rằng giá như nó cứ làm đại ca ở ngoài Bãi Cạn có khi còn sống được dài dài. Nhưng nó tham lam, muốn mở địa bàn vào trong bãi Cửa Tử, tranh giành bá chủ nơi khốc liệt nhất, nên đã “tử” ngay từ ngày đầu tiên. Hắn chết vì rơi xuống vực hay bị giết rồi quăng xác xuống, người ta không buồn nhắc tới nữa. Mấy đứa em đi theo anh, đứa chết vì tiêm chích, đứa xiêu bạt đâu đó, không ai nói lại. Con vợ thằng đại ca sau khi sinh nở, được tin chồng tử nạn, ôm con trốn khỏi nhà chồng.

 Nếu nhìn theo con mắt quen thuộc, làng An Hòa chẳng có gì thay đổi cả. Vẫn cái làng bé xíu chỉ có một con đường thông thương với thế giới bên ngoài. Vẫn con mụ què chửi bới suốt ngày này qua ngày khác với những ca từ lặp đi lặp lại chán phè, vô hại. Nếu không chê trách những đứa con hư hỏng của mụ thì mụ vẫn là người mẹ tuyệt vời. Mẹ tròn con vuông biết bao bà mẹ khác cầu mong được như thế, nào có được như ý. Vẫn lão mù lấy đêm làm ngày, xoay trở láu cá kiếm miếng ăn.

Điều hơi lạ: Tại sao UBND xã lại đặt trụ sở ở làng An Hòakhông vào các thôn trù phú khác? Có người nói vì ông Chủ tịch xã ngày ấy người của làng An Hòa, muốn các làng khác kính nể làng mình nên cố tình đặt trụ sở tại làng để gây thanh thế? Thực tế không phải như vậy, đều đổ tội oan cho ông. Trên nền đất Ủy Ban bây giờ trước đây là ngôi đền cổ bị hai quả bom trong thời chiến tranh phá đổ. Dân làng san lấp hố bom, nhưng không có tiền phục dựng lại. Ủy Ban thấy đất vừa rộng vừa hợp “phong thủy” dựng tạm trụ sở làm nơi sơ tán. Dần dà Ủy ban làm được dãy nhà xây cấp bốn. Dù to, dù nhỏ, Ủy ban cũng trụ lại được cho đến ngày nay.

 Bây giờ khắp nơi đua nhau làm cổng làng, xây đền thờ, miếu mạo. Làng nào nhiều đại gia giàu có, bỏ tiền ra xây cất để lấy lộc cho con cháu về sau. Làng nghèo, không đại gia, đành phân bổ về từng nhà góp tiền xây dựng đền chùa, mua sắm đồ thờ cúng.

Làng An Hòa tuy không giàu có như các làng khác, nhưng cũng muốn có nơi thờ cúng. Nhưng vì đất cát xây dựng chùa chưa có, nhiều năm vẫn âm thầm chịu đựng. Dân làng nghĩ không chừng vì không thờ cúng thần hoàng nên làng An Hòa không ngóc đầu lên được, chí ít sánh ngang với các làng bên cạnh. Người ta nghĩ ngay tới việc đòi lại đất đền chùa y ban đang sở hữu. Sự việc mới chỉ manh nha với một số người có “máu mặt”. Nhưng dần dà câu chuyện trở thành nóng bỏng, bàn luận suốt ngày đêm, đến nỗi lão Cù điếc ở cuối xóm, không biết nghe ngóng thế nào, giọng oang oang:

- Có chết, cũng phải đòi đất y ban làm chùa.

Người ta đã đánh tiếng, bóng gió với Ủy ban, nhưng không thấy y ban nói gì, cứ như là không nghe, không biết gì cả. Có người suy đoán xã chưa xin được kinh phí để xây dựng trụ sở y ban mới, cũng có thể họ cho rằng làng An Hòa xây chùa tốn kém cho dân, mang nặng tính mê tín dị đoan trong thời đại văn minh…

Nhưng dân làng không nghĩ như vậy, họ cần đất để làm chùa, Ủy ban phải di dời đi nơi khác… Sự việc cứ thế bùng nhùng mãi, đến một ngày không biết có ai xúi giục hay không, các cụ trong làng đặt bát nhang, kê bàn thờ giữa lối đi khiến Ủy ban khó khăn khi làm việc, giao tiếp. Các cụ thay nhau trực suốt đêm ngày kéo dài hàng tháng trời. Không biết được bao lâu nhưng một ngày thứ năm vào khoảng ba giờ chiều đoàn xe từ trên huyện kéo xuống, chặn đường vào An Hòa, tiến hành giải tỏa.

Cùng lúc, làng An Hòa như có động đất, rùng rùng chuyển động. Chiêng trống hoặc bất cứ vật gì có âm thanh phát ra, được huy động vào cuộc. Có thể coi trận chiến “giáp lá cà” cũng được, bởi một bên Công an, một bên dân làng An Hòa xáp vào nhau. Không có tiếng súng, nhưng các vật thể lạ va chạm nhau. Những ai có thể vào cuộc, họ lôi vào hết: trẻ em ném đá củ đậu, nam thanh dùng gậy gộc, các mụ nạ dòng lăn xả vào công an, bóp… Kết quả công an rút quân, tạm thời thất bại. Để kích động phẫn nộ trong dân, họ đưa các cụ già vào cuộc xô lấn, khiến nhiều cụ ngã ra đất hoặc tự ngã, rồi đắp chiếu, thắp hương nghi ngút như người tử nạn. Ai nhìn vào cũng thấy thê lương, đau xót cùng nỗi phẫn uất tột cùng…

 Khổ thân mụ què, đã không đi được, bây giờ sao lại gãy chân? Mụ nhớ lại, trong lúc xô xát, có ai đó bế mụ đặt xuống sân rồi đắp chiếu giả làm người chết. Không lẽ chúng mong cho mình chết thật hay sao? Mụ tốc cái mấn lên, không thấy đau ở chỗ nào, nhưng bông băng lại quấn đầy chân, hãi quá rồi thét lên:

- Bớ người ta, năm đời, mười đời, tổ tiên ông bà, ông vải chúng mày chết bờ, chết bụi về đây mà xem chân bà thế này này. Đ…mẹ thằng nào, con nào đẻ ra chúng mày âm mưu, xúi giục đưa bà ra nơi “đầu tên mũi giáo”.

Rồi mụ vỗ đùi, vỗ mông xem mình có đẻ ra đứa “mặt người, dạ thú” ấy không? Chợt nhớ ra mình chẳng có tí thịt nào ở mông cả, mụ đành đập tay xuống giường nghe “phành phạch, phành phạch” như muốn dựng giường, dựng chiếu.

Một tháng sau, công an về An Hòa tóm gọn bọn chủ mưu kích động dân làng đòi đất, xây chùa. Nghe nói thằng con trưởng của gia đình bệnh hoạn người cầm đầu đã bị bắt đầu tiên.

                                                  Tháng 5 - 2017

 

 unnamedmn

           

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét