TIỂU LUẬN CỦA ANH CHI Sửa
TỪ VĂN HÓA LẠC VIỆT TỚI VĂN HỌC THÀNH VĂN
ANH CHI
Ngay từ khi khai mở nền Văn học thành văn, các tác gia văn chương nước
Việt ta đã kiến tạo một nền văn học không giống với Trung Quốc nói riêng và
các nước Phương Đông nói chung. Đó là văn chương viết bằng tâm hồn Việt
để nói về đời sống cuả người Việt ta. Bởi thế, ngay từ thuở ban đầu ấy, họ đã
tạo nên Văn mạch Việt, và nhiều đời sau, nó đã được khơi sâu, mở rộng cùng
dòng lịch sử người Việt chảy xiết và luôn mở mang trên đất nước Việt Nam ta!
1. Thời điểm xuất hiện nền Văn học thành văn của nước Việt ta?
Theo phân kỳ của các nhà làm Văn học sử, Văn học Việt Nam thời Trung đại bắt
đầu từ thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIX, nghĩa là từ khi có Văn học thành văn đến khi
chuyển sang Văn học hiện đại. Một đại biểu được ghi nhận đã khai mở Văn học thành
văn của nước Việt ta là Đỗ Pháp Thuận (915 – 990), thiền sư thuộc thế hệ thứ 10 của
Thiền phái Vinitaruci (Tì ni đa lưu chi), có học vấn uyên bác nên được Vua Lê Đại
Hành mời làm cố vấn. Năm 981 ông đã viết bài thơ Quốc tộ (Phúc nước), còn lưu lại
được trong tác phẩm Phật học Thiền uyển tập anh. Thời điểm này, Văn học thành văn
của nước Việt ta còn chưa được ghi nhận một tác phẩm văn xuôi nào. Phúc nước là một
bài thơ 4 câu 5 chữ, (phiên âm): Quốc tộ như đằng lạc/ Nam thiên lý thái bình/ Vô vi cư
điện các/ Xứ xứ tức đao binh; bản dịch thơ của nhà văn, sử gia Tạ Ngọc Liễn (trong tác
phẩm Bút hoa):
Phúc nước cây leo quấn quýt
Trời Nam trong cảnh thái bình
Sống thuận theo lẽ tự nhiên trong cung điện
Khắp nơi đều chấm dứt đao binh.
Nhận định Văn học trung đại của nước Việt Nam ta tính từ khi có Văn học thành
văn, cụ thể là từ khi Đỗ Pháp Thuận viết bài Phúc nước, đến hết thế kỷ XIX, đã được
phổ biến rất sâu rộng và đã thành nền nếp trong đời sống văn học nói riêng và văn hóa
Việt Nam nói chung nhiều thập kỷ qua. Tuy vậy, viết thiên tiểu luận về Văn mạch Việt
này, chúng tôi thấy phải mạnh dạn nêu một vấn đề vượt ra ngoài sự nền nếp ấy: Coi
Văn học thành văn của nước Việt ta khởi đầu từ thế kỷ X, ví dụ cụ thể là sự xuất hiện
văn bản bài thơ Quốc tộ, một tác phẩm Phật học của Đỗ Pháp Thuận năm 981, vậy thì,
trường hợp bộ sách Lục độ tập kinh, tác phẩm Phật học của Khương Tăng Hội (? –
280), trên thực tế cũng đã thành văn, nhưng tính vào giai đoạn văn học nào? Không kể
về thời gian để có được bản Lục độ tập kinh (LĐTK) tiếng Việt, chỉ tính khoảng thời
điểm Khương Tăng Hội dịch LĐTK ra tiếng Hán là trước năm 250, thì tác phẩm của
ông đã xuất hiện sớm hơn tác phẩm Quốc tộ chừng 730 năm. Và nữa, vì đã là tác phẩm
thành văn, không thể xếp LĐTK là thuộc Văn học dân gian. Nêu vấn đề đặc biệt về
Khương Tăng Hội, chúng tôi rất mong các nhà nghiên cứu văn chương nói chung và
nhất là các nhà làm Văn học sử nói riêng cùng động tâm, suy nghĩ!
2
Chúng tôi cho rằng, vấn đề có phần còn lớn hơn và đáng động tâm, động trí hơn,
là rất cần nhìn nhận kỹ lưỡng và khoa học về văn hóa và văn chương thành văn của
nước Việt ta từ đầu công nguyên. Bởi, thế kỷ I trước công nguyên, Luy Lâu (Thuận
Thành, Bắc Ninh ngày nay) đã là một trung tâm Phật giáo đầu tiên của người Việt,
cũng là trung tâm kinh tế, văn hóa xã hội của nước Việt ta. Thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ
IV, ở nước Việt ta đã xuất hiện những tác gia thật lớn, như Đạo Thanh (còn gọi là Đạo
Hinh), Pháp Minh, Lý Miễu… Trong đó, nổi trội là Mâu Bác (Mâu Tử) với tác phẩm
Lý hoặc luận từng được coi là sách gối đầu giường của giới Phật học Viễn Đông (gồm
cả Trung Quốc, Nhật Bản). Và đặc biệt hơn, tác gia để lại nhiều dịch phẩm và tác phẩm
nhất, là Khương Tăng Hội (? – 280), người Giao Chỉ, xuất gia, tu trì tại chùa Kiến Sơ
và trứ tác những tác phẩm chủ yếu trong thời gian ông sống tại Luy Lâu và chùa Kiến
Sơ (một ngôi chùa tối cổ tọa lạc tại xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm ngày nay). Có thể
nói, Khương Tăng Hội là người đầu tiên sử dụng các kinh sách Phật giáo Việt để dịch
sang tiếng Trung Quốc, hiện còn lưu lại được hai bộ, đó là Lục độ tập kinh và Cựu tạp
thí dụ kinh. Chính qua các bộ kinh đó mà phần nào những truyền thống văn hóa, điển
huấn của dân tộc Việt ta được bảo lưu đến ngày nay!
Sách Lương cao tăng truyện (còn được gọi gọn là Cao tăng truyện) của Huệ
Kiểu (497 - 554) hoàn thành năm 529, có viết về Khương Tăng Hội: “Ngài là một
người trác tuyệt, có đặc tài và học thức, tính tình cởi mở chân thực, ham thích nghiên
cứu. Ngài giảng nghĩa kinh Tam tạng rõ ràng, đọc nhiều sách thiên văn…”. Về dịch
phẩm LĐTK, bản kinh lục xưa nhất hiện còn là Xuất Tam tạng ký tập 2 có ghi: “LĐTK
9 quyển... sa môn Thiên trúc Khương Tăng Hội dịch (từ tiếng Việt) ra (chữ Hán) vào
đời Ngô chúa Tôn Quyền (222 – 252)”. Sách Cao tăng truyện cũng xác nhận Khương
Tăng Hội dịch LĐTK thời gian ông ở chùa Kiến Sơ. Về việc Khương Tăng Hội dịch từ
một văn bản tiếng Việt sách Lục độ yếu mục do chính ông biên soạn (đã thất truyền),
hay từ những bài giảng của những vị thầy, như Mâu Tử cùng những hiểu biết về văn
học cổ điển ngữ hệ Pàli, văn học truyền thống Phạn văn, và từ sự thấu hiểu truyền
thống văn hóa Phật giáo Việt cùng những lẽ đời mà người Việt đã nếm trải, ông đã
sáng tạo được văn bản LĐTK và dịch ra chữ Hán, đến nay chúng ta còn chưa minh định
được. Tuy nhiên, đã chắc chắn có một sự thực trong lịch sử trứ tác của nước Việt ta nói
riêng và các nước Viễn Đông nói chung là: Người Việt, người Trung Quốc và một số
dân tộc khác nữa đã đọc LĐTK của Khương Tăng Hội qua bản chữ Hán từ giữa thế kỷ
thứ III, hoặc các bản dịch sang chữ Nhật, chữ Pháp nhiều năm trước đây cũng từ một
nguồn là dịch phẩm chữ Hán của Khương Tăng Hội!
Trong sách LĐTK có không ít truyện viết thật giản dị và đặc biệt là không sa vào
lối văn chương gặp gì ghi nấy và cách diễn đạt biền ngẫu thường thấy trong các nho gia
thời Trung đại. Nhiều chi tiết sống trong truyện của Khương Tăng Hội thật sự sinh
động và mang sắc thái, phong tục Việt Nam, như tập quán bỏ vàng bạc, ngũ cốc vào
miệng người chết khi khâm liệm (truyện 68). Trong văn Khương Tăng Hội, có từ
chuyện nướng chuột đem bán (như thực phẩm), cho đến sự khẳng định thai nhi ở trong
bụng mẹ 266 ngày (như y học ngày nay ghi nhận), có nói tới tục cổ của người Việt ta là
lấy thân cây chuối làm hình nộm ma quỷ…, và thật đặc sắc, ông đã tạo nên hình tượng
đẹp điển hình trong văn chương Viễn Đông là nơi mỗi bước chân của người phụ nữ đẹp
3
thanh cao trên mặt đất nở ra một bông hoa sen (truyện 23)… Có thể nói, nhiều truyện
trong LĐTK mang phẩm chất văn chương, vừa có tính dân tộc Việt vừa có tính nhân
loại. Chúng tôi mạnh dạn nhận định rằng, ngoài giá trị về Phật học, LĐTK là một thành
tựu lớn đầu tiên của Văn học Việt Nam ta, và, nền văn học thành văn của ta không phải
khởi đầu từ thế kỷ X với bài thơ Quốc Tộ của Đỗ Pháp Thuận mà là đã bắt đầu sớm
hơn chừng 730 năm bởi sự ra đời của tác phẩm LĐTK. Để bạn đọc và giới quan tâm
thấy được tư tưởng Phật giáo, ngôn ngữ văn chương cũng như học vấn của một tác gia
nước Việt ta gần hai ngàn năm trước, xin trích gọn Truyện thứ 23 trong LĐTK (bản
dịch của sử gia Lê Mạnh Thát):
Xưa có một người mẹ góa, làm thuê nhà giàu, coi giữ ruộng vườn. Một hôm,
người chủ có bận, quá giờ ăn mới ăn. Tới lúc bà muốn ăn thì có một sa môn đến xin.
Lòng nghĩ người này tuyệt dục bỏ tà, hạnh ngài trong chân, nên cứu kẻ đói trong bốn
biển không bằng đem một chút của mà bố thí cho vị tịnh giới chân hiền đó. Bà bèn đem
phần ăn của mình bỏ hết vào bát, rồi đặt thêm một cánh sen lên trên mà đem ra cúng
dường. Vị sư bèn hiện sức thần, phóng ra ánh sáng. Bà mẹ mừng vui, than rằng: “Đấy
chính là vị mà người ta gọi là thần thánh sao? Nguyện ta sau này sẽ sinh ra một trăm
người con giống như thế”.
Bà mẹ chết đi, thần thức dời đến làm kẻ nối dõi của một vị phạm chí. Linh thức
bà tụ lại chỗ tiểu tiện của vị ấy. Nai liếm lấy tiểu tiện, tức cảm mà có thai. Tới khi đầy
tháng, bèn sinh ra một người con gái. Vị phạm chí nuôi lấy. Đến tuổi hơn mười, mặt
mày sáng sủa, dáng đi mềm mại. Người cha bảo cô ở nhà giữ lửa. Nhưng một hôm ham
chơi với Nai, không biết lửa tắt. Người cha trở về nổi giận, bảo đi xin lửa. Cô đến xóm
dân, mỗi chỗ cô bước liền sinh ra một hoa sen. Người chủ có lửa nói: “Mày đi quanh
nhà tao ba vòng thì tao sẽ lấy lửa cho mày”. Cô gái liền theo lệnh, và hoa sen mọc trên
đất bằng vây quanh nhà tới ba vòng. Người qua đường đều dừng chân, không ai không
lấy làm lạ, nhanh chóng đồn ra, tiếng đồn tới tai vua của nước.
Vua sai thầy tướng xem tướng sang hèn. Thầy tướng nói: “Cô ấy tất có thánh tự,
truyền ngôi vô cùng. Vua sai hiền thần sắm lễ nghênh đón. Dung mạo cô đẹp đẽ, cung
nhân không ai bằng. Cô bèn có thai, đủ tháng sinh trứng một trăm cái. Hậu phi cho
đến tỳ thiếp không ai là không ghét cô, nên chúng lấy chuối, khắc sẵn tượng quỷ, đến
khi lâm sàng, chúng lấy tóc phủ mặt tượng, rồi lấy máu mà bôi lên, đem cho vua xem.
Quá nhiều yêu tà, nên sáng suốt bị che lấp, vua bèn tin chúng một cách sai lầm.
Bọn yêu tà đó lấy một cái hũ, bỏ trứng đầy vào, rồi đậy miệng kín lại, đem vứt
xuống dòng sông. Thiên Đế Thích hạ xuống, dùng ấn phong lấy miệng hũ, chư thiên
bay theo hai bên bảo vệ. Nó theo dòng, dừng lại, như một cây trụ đồng ở trên đất bằng.
Vua nước hạ lưu ở trên đài của ông ta, xa thấy một cái hũ trôi xuống giữa dòng, ánh
sáng huy hoàng, như có sự linh thiêng của trời đất. Bèn vớt lên xem, thì thấy dấu ấn
của Đế Thích, mở ra thì được một trăm cái trứng. Bèn sai một trăm người đàn bà giữ
lấy mà nuôi, ấm nóng đủ tháng, thân thể thành ra, thì sinh một trăm người con trai.
Những người con trai này vừa mới sinh ra đã có trí thượng thánh, không dạy mà
tự rõ, mắt mũi vượt đời, tướng đẹp hiếm có, sức lực mạnh mẽ, hơn người trăm bội,
tiếng nói gióng lên như sư tử rống. Vua bèn sửa soạn một trăm voi trắng, với yên nài
kàm bằng lục bảo, để cấp cho những đứa con nối dõi thần thánh của mình, kíp đi chinh
4
phục các nước lân cận. Bốn phương hàng phục, đều xưng tôi mọi. Những đứa con ấy
lại đến chinh phục nước đã sinh ra chúng. Quốc nhân lớn nhỏ ai cũng khiếp sợ. Vua
hỏi: “Ai có thể chống lại những quân địch ấy?” Phu nhân trả lời:“Xin đại vương đừng
sợ, xem địch từ ngả nào đến đánh thành thì đến chỗ đó mà dựng một cái đài. Tôi sẽ vì
vua mà khiến địch phải hàng”. Vua bèn cho người đi xem địch đến từ ngả nào, để dựng
đài.
Bà mẹ liền lên đài, cất tiếng nói: “Rằng đại nghịch tội đồ gồm có ba: Không xa
bọn tà, chuốc tội đời sau, đấy là tội thứ nhất. Sinh ra mà không biết cha mẹ, lại đi
ngược lại hiếu hạnh, đấy là tội thứ hai. Ỷ sức mà giết cha mẹ, làm hại Tam bảo, đấy là
tội thứ ba. Giữ ba điều đại nghịch ấy, ác không lấy gì che được. Chúng mày hãy há
miệng thì chứng cứ hiện ngay”. Bà mẹ liền vạch vú mình ra, trời khiến nó bắn sữa
khắp cả miệng trăm đứa con. Cảm thấy sự tinh thành, chúng uống sữa, lòng buồn, nên
đồng thanh nói: “Đây là mẹ ta”. Nước mắt chảy lan cả hai má, chúng chắp tay đi tới,
cúi đầu hối lỗi. Cha mẹ và con nối dõi bây giờ mơi gặp nhau, không ai là không cảm
động.
Hai nước giờ đây hòa hảo với nhau, tình quá anh em. Mọi phương mừng vui,
không ai là không khen hay. Những người con thấy đời vô thường như huyễn, chúng từ
biệt mẹ cha để học đạo, xa đời bụi dơ. Chín mươi chín người con được quả duyên giác.
Một người con ở lại coi việc nước. Khi vua cha băng, lên ngôi vua, đại xá mọi tội, phá
bỏ lao ngục, san bằng hào thành, thả hết nô lệ, an ủi người hiếu đễ, nuôi nấng kẻ cô
độc, mở kho tàng đại bố thí, tùy theo ước nguyện của dân mà cấp. Nước lấy mười điều
thiện làm pháp luật, người người đều mang theo đọc. Nhà có con hiếu, dựng lập chùa
tháp cúng dường sa môn, đọc kinh bàn đạo, miệng không bố ác, những độc hết sạch.
Mạng sống càng dài, vua trời nuôi giúp, như cha nuôi con.
Phật nói với các sa môn rằng: “Kẻ ở lại coi việc nước đây chính là thân ta vậy.
Vua cha chính nay là vua Bạch Tịnh và mẹ tức là Xã Diệu. Người bồ tát tử huệ vượt vô
cực thực hành hạnh bố thí là như thế đó.
Xét về văn bản học, có thể nói, truyện thứ 23 trong LĐTK là văn bản truyền
thuyết trăm trứng cổ xưa nhất, kể về lịch sử khởi nguyên của dân tộc Việt ta. Và rồi, tới
thế kỷ XIV, tương truyền Trần Thế Pháp biên soạn bộ sách Lĩnh Nam trích quái, trong
đó, truyện đầu tiên là Hồng Bàng Thị (Truyện họ Hồng Bàng) cũng dùng truyền thuyết
trăm trứng để kể về khởi nguyên của người Việt và nhà nước Văn Lang của dân tộc
Việt ta, xin trích một đoạn: “…Lạc Long Quân lấy Âu Cơ, trong năm sinh ra một bọc
trứng, cho là điềm bất thường, vứt ra ngoài đồng nội, qua bảy ngày, bọc vỡ ra một
trăm quả trứng, mỗi trứng nở ra một con trai, mới đem về nuôi. Không cần phải bú
mớm, các con tự lớn lên, người nào cũng trí dũng song toàn, ai ai cũng nể phục, đểu
cho là những người phi thường…” Truyện còn kể tiếp về Lạc Long Quân đem 50 con
xuống biển, “…Âu Cơ và 50 con về đất Phong Hiệp (nay là Bạch Hạc) cùng suy tôn
anh cả lên làm vua, Quốc hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang”.
Xét về nghệ thuật văn chương, truyện thứ 23 trong LĐTK có một đặc điểm là
nhiều tình tiết mang tính thần dị, lạ thường, nhưng đẹp đẽ và giản dị. Đó là phẩm chất
rất đậm trong Văn chương truyền kỳ Trung Quốc xuất hiện vào cuối đời Tùy (581-
618), và đời Đường (618 - 907). Điều đó cho thấy, rất đáng khâm phục danh tài
5
Khương Tăng Hội, bởi ông đã viết LĐTK trước khi có Văn chương truyền kỳ ở Trung
Quốc chừng ba thế kỷ!
2. Từ thần thoại đến văn học thành văn đã văn - sử bất phân
Các dân tộc trên tthế giới, từ trước khi có chữ viết, thảy đều đã có mong muốn
bảo tồn những ký ức trong đời sống xã hội của mình. Đó là dấu hiệu chứng tỏ sự tồn tại
và trưởng thành của mình trong cộng đồng trước thiên nhiên vô cùng vô tận cũnh như
phải vượt qua những hiểm họa khốc liệt để phát triển. Do vậy, người ta phải tìm cách
đặt ra những bài anh hùng ca, đặc biệt là những thần thoại, truyền thuyết. Con người
thời cổ xưa coi thần thoại, truyền thuyết như thiên lịch sử trong chiều sâu tâm thức của
mình, nên rất coi trọng việc lưu truyền qua nhiều thế hệ, bởi thế, nhiều thiên thần thoại,
truyền thuyết được người ta đặt thành văn vần cho dễ nhớ, dễ phổ biến trong cộng
đồng. Với những dân tộc sớm phát triển, chữ viết được phát minh giúp người ta ghi lại
những thần thoại, truyền thuyết của dân tộc mình một cách có hệ thống. Và nữa, khi
văn học thành văn hình thành thì thần thoại, truyền thuyết được các văn nhân, thi sĩ tạo
tác thành các tác phẩm văn chương, được lưu truyền bằng văn bản, như dân tộc Ấn Độ
có Mahabharata, dân tộc Hy Lạp có Iliad và Odyssey…
Việt Nam ta, do nhiều thăng trầm lịch sử, thần thoại, truyền thuyết còn lại không
được nhiều và cũng không có được nội dung phong phú như các dân tộc phát triển sớm.
Ở các dân tộc cư trú tại Bắc bộ nước ta như Mường, Thái, Dao (Mán)… việc hát các
truyền thuyết hầu như chỉ là việc của các thầy Mo (Pháp sư); còn các dân tộc ở Tây
Nguyên như Ba Na, Gia Rai, Ê Đê… thì hầu như chỉ dành cho người đứng tuổi, có
giọng hát hay hát lên trong những lễ hội trọng thể của cộng đồng. Và rồi, từ khi có văn
học viết, các Nho gia xây dựng quốc sử, đã gắn liền thần thoại, truyền thuyết vào giai
đoạn khuyết sử mà lại có ý uốn nắn thần thoại thành sự việc lịch sử. Bởi thế, đến thời
Trần, Lý Tế Xuyên và Trần Thế Pháp đã biên soạn được hai tác phẩm văn xuôi tự sự
quan trọng là Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái với nội dung tôn vinh lịch sử
phát triển giống nòi, chống giặc ngoại xâm, khẳng định sức sống mãnh liệt của dân tộc
Việt Nam!
Chuyện Thánh Gióng, mới ba tuổi đã lên ngựa sắt đánh giặc Ân (truyện Đổng
Thiên Vương trong Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp; trong Việt điện u linh của
Lý Tế Xuyên là Thần Phù Đổng). Đây là một chuyện sử phản ánh cuộc chiến đấu xưa
nhất của người Việt ta chống xâm lược phương Bắc, mà giặc Ân chính là nhà Thương
(1556 TCN - 1046 TCN), nghĩa là hơn 3500 năm trước. Xin nói rõ: các bộ cổ sử của
Trung Hoa chỉ cho biết đại khái rằng vua Thành Thang diệt được nhà Hạ khai lập nên
nhà Thương, họ quy tụ các bộ lạc trên vùng đất đai gồm các tỉnh Sơn Tây, Sơn Đông,
Hà Bắc, Hà Nam ngày nay. Ban đầu, Kinh đô nhà Thương ở đất Bạc, sau bị các bộ lạc
du mục phía Tây lấn đánh, phải chuyển Kinh đô 7 lần, cuối cùng tới đất Ân Khư ở phía
Đông, gần An Dương, đổi quốc hiệu là Ân. Vậy phải chăng, thời thánh Gióng đánh
giặc Ân xâm lược là thời lãnh địa sống của người Việt ta còn tới tận Lĩnh Nam, (cũng
thế, năm 40 – 42 thế kỷ thứ I, Hai Bà Trưng cũng đã nổi binh chống giặc, lấy được 65
thành ở cõi Lĩnh Nam). Vâng, hình tượng người anh hùng, ở độ tuổi còn non nớt (như
biểu đạt về một nhà nước buổi ban đầu của người Việt) cưỡi ngựa sắt khạc ra lửa cả
6
phá giặc phương Bắc, trong thẳm sâu tâm thức người Việt ta hàng ngàn năm, rồi trở
thành nhân vật điển hình trong chuyện sử của dân tộc Việt ta khi có văn học viết!
Theo dòng chảy lịch sử người Việt ta, chúng tôi đặc biệt lưu tâm đến một thời
điểm vô cùng quan trọng, đó là khi cuộc Kháng chiến chống giặc phương Bắc của Hai
Bà Trưng bị thất bại vào năm 43.
Trước tiên, chúng ta hãy nhìn nhận từ năm 43 trở về trước, người Việt ta còn
chưa có tác phẩm thành văn nào xuất hiện. Hoặc nói một cách khác, là cho đến nay,
chúng ta chưa tìm thấy một tác phẩm thành văn nào đã xuất hiện trong đời sống xã hội
người Việt ta trước năm 43, mặc dù người Việt ta đã có nhà nước từ hơn bốn ngàn năm
trước, khi Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang (ĐVSKTT). Tuy nhiên, xin
lưu ý truyện số 10 (Bạch trĩ chuyện) trong sách Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế
Pháp, đã viết rằng: “Về đời vua Thành Vương nhà Chu (1065 – 1021 TCN), Hùng
Vương sai bề tôi xưng là họ Việt Thường đem chim trĩ trắng sang cống hiến, Chu Công
phải qua ba lần thông ngôn mới hiểu nhau được”. Và, trong ĐVSKTT, phần Kỷ Nhà
Thục, đã chép: “Năm Giáp Thìn, 257 TCN (Chu Noãn Vương năm thứ 58) An Dương
Vương đã đổi quốc hiệu Văn Lang thành Âu Lạc, và cho “đắp thành ở Việt Thường,
rộng nghìn trượng, cuốn tròn như con ốc, nên gọi là Loa Thành”. Nay di tích lịch sử
Loa Thành hiện còn tại Đông Anh Hà Nội, chùa Kiến Sơ ở gần đó. Vậy là, qua sử liệu
và sử chuyện của Việt Nam, có thể khẳng định, dân tộc Việt ta từ hơn 3000 năm trước
đã có một ngôn ngữ, ít nhất là một cách diễn ngôn, khác biệt đối với nhà nước ở
phương Bắc! Thêm nữa, Luy Lâu (thuộc Thuận Thành, Bắc Ninh ngày nay) - lỵ sở của
quận Giao Chỉ cũng là thủ phủ của Giao Châu, từ thế kỷ thứ nhất TCN không chỉ là
trung tâm chính trị, trung tâm kinh tế, thương mại, văn hóa, mà còn là trung tâm Phật
giáo đầu tiên và lớn nhất của Việt Nam ta. Do sự viếng thăm bằng đường biển của các
thương gia và tăng sĩ Ấn Độ mà Phật giáo đã đến kẻ Dâu tức vùng Luy Lâu nước ta,
chứ không phải từ Trung Quốc truyền xuống. Thời này, nhất thiết người Việt ta phải
giao dịch với các tăng sĩ và thương gia Ấn Độ bằng ngôn ngữ của mình, (bởi chữ Hán
vào nước ta từ thế kỷ II), qua thông dịch hoặc có những người nước ta đã thạo ngôn
ngữ Ấn Độ. Chùa Dâu được lập dựng tại kẻ Dâu từ thế kỷ I, là ngôi chùa cổ xưa nhất
gắn liền với lịch sử văn hóa, Phật giáo Việt Nam qua sự tích về Phật mẫu Man Nương
được thờ tại chủa Tổ ở làng Mèn, cách chùa Dâu một cây số. Man Nương còn được gọi
là A Man (theo tiếng Việt là ả Mèn, cô Mèn), qua một lần thai nghén sinh nở thần kỳ
được một bé gái, rồi cây đa thu vào lòng thành một hòn đá, đúng vào ngày Phật đản.
Sau, người ta chia cây đa làm tư, tạc thành bốn bức tượng, đặt thờ tại bốn chùa là chùa
Dâu, chùa Đậu, chùa Tướng và chùa Dàn, tạo nên hệ thống chùa thờ Tứ Pháp (Pháp
Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện). Truyền thuyết đó ăn sâu vào tâm thức người Việt
ta bao đời, đến thế kỷ XIV cũng được Trần Thế Pháp biên soạn thành Truyện Man
Nương trong sách Lĩnh Nam chích quái. Đó là sự tiếp biến văn hóa khá đặc sắc: Văn
hóa nông nghiệp lúa nước cùng tín ngưỡng bản địa tiếp thu đạo Phật, rồi trở thành
chuyện sử của người Việt ta. Và chính từ nguồn cội đó mà văn chương của người Việt
ta từ rất sớm đã đậm đặc một thuộc tính là văn, sử bất phân!
Còn một thực tế lịch sử nữa là, các thư tịch Trung Quốc, ngay cả Hậu Hán thư
cũng chỉ ghi: “Quận Nhật Nam đem phẩm vật cống hiến Hán Đế bằng đường biển”,
7
còn hầu như không đề cập gì lớn đến Giao Chỉ và đời sống xã hội của người Việt ta. Có
thể do ở xa, và quan trọng hơn là do phong tục văn hóa khác biệt với người Bắc quốc,
nên nước Việt ta từ thuở các vua Hùng đã biệt ra một cõi. Cõi đó là Lạc Việt với khu
vực trù mật và rất rộng lớn thuộc lưu vực sông Lam, sông Mã, trải rộng khắp lưu vực
sông Hồng trở lên phía bắc, qua nhiều đời vua Hùng trị vì, dân tộc Việt đã tạo lập nhà
nước và cũng đã tạo nên nền văn minh của mình. Thể chế xã hội đã rõ ràng, minh bạch,
có gia đình, có vua và các hiền thần, có nước và nước lân bang, có tục lệ và cả điều
thiện làm pháp luật… (như trong Truyện thứ 23 của LĐTK đã viết). Với một di sản lịch
sử có chiều sâu gốc rễ như vậy của dân tộc mình, tất yếu các trí thức, tác gia lớn như
Mâu Bác, Khương Tăng Hội và một số vị chúng tôi nêu ở trên, đã được kế thừa những
giá trị truyền thống của Văn hóa Lạc Việt! Đơn cử Khương Tăng Hội, một người có trí
đức, tất nhiên đã thấm nhuần nền học huấn của dân tộc cùng lý tưởng Phật giáo, lại
được dìu dắt bởi vị thầy Mâu Bác, tinh thông cả ngôn ngữ Phạn, ngôn ngữ Hán, nên tất
yếu, ông đã nghiên cứu, trứ tác, truyền giáo với một tâm hồn và trí tuệ Việt Nam.
Chúng tôi nghĩ, những tác giả Phật học và cũng là tác gia Văn học Phật giáo gần hai
ngàn năm trước, do tác phẩm của họ được lưu giữ trong các kinh, sách Phật giáo, nên
dễ được bảo lưu hơn qua những cơn binh lửa lịch sử trên đất nước Việt ta. Vậy nên đến
thời độc lập, tự chủ, và nhất là khi người Việt cũng đã có nền Văn học thành văn khá
phổ biến rồi, vào năm Bính Tý 1096 đời Lý Nhân Tông, đã có sự kiện văn hoá Phật
giáo quan trọng: Khi được vời vào triều đình trình bày về lai lịch Phật giáo Việt Nam
với Hoàng Thái hậu Ỷ Lan, thiền sư Thông Biện đã nói tới Mâu Bác và Khương Tăng
Hội như hai đại biểu tôn giáo tiêu biểu đầu tiên của nước Việt ta.
Đến nay, qua cứ liệu khảo cổ học và những công trình văn hóa sử của nhiều học
giả lớn trên thế giới và trong nước, có thể nói, nền Văn minh Lạc Việt đã đạt tới đỉnh
cao rực rỡ với di chỉ Văn hóa Hòa Bình (12000 năm đến 10000 năm TCN) và tiếp sau
dó là Văn hóa Đông Sơn… dẫu nắng mưa, bão táp lịch sử khốc liệt đến mấy cũng
không thể phủ mờ. Tuy nhiên, chúng ta cũng hiểu thấm thía rằng, so với những trống
đồng Đông Sơn và những mũi tên đồng Cổ Loa... thì những sách vở, thư tịch chỉ là
những trang giấy, những mộc bản thật vô cùng mong manh. Vậy mà, để bảo vệ những
mộc bản, trang giấy mong manh đó, người Việt ta đã phải bước vào cuộc chiến đấu rất
dài lâu với kẻ thù phương Bắc, bắt đầu từ năm 43. Bởi từ thời điểm đó, dưới bàn tay
Mã Viện, nhà nước phong kiến phương Bắc tiến hành các biện pháp hủy diệt thành tựu
Văn hóa Lạc Việt. “Đồng hóa! Giáo hóa, khai hóa, đồng văn, đồng văn hóa, tất cả
những chữ ấy mà bọn xâm lược từng ưa dùng đến chỉ cốt để che đậy cái âm mưu đồng
hóa và bạo tàn này. “Hóa” ta thành ra chúng nó… Điều đáng chú ý là từ các quan
thái thú, thứ sử đời xưa cho đến nay bao giờ họ cũng diễn đạt những mưu đồ xâm lược
của mình dưới dạng văn chương văn hóa. Thực là sang trọng!” - (trích Từ gác Khuê
Văn đến quán Trung Tân của Chế Lan Viên, 12/1979).
Từ thế kỷ II, tiếng Hán qua nhiều ngả đường để tới nước Việt ta, trước tiên là
vào Luy Lâu. Với chính sách đồng hóa để nô dịch lâu dài, bắt đầu từ Mã Viện, tiếng
8
Việt bị chèn ép mạnh (còn văn tự Việt chưa có, hay đã bị xoá mất sau ngàn năm Bắc
thuộc?). Mâu Bác, Khương Tăng Hội cùng một số tác gia Phật học người Việt ta rất
thấm nhuần tiếng Việt đã có từ lâu đời cùng nền văn minh lúa nước, hiểu biết về điển
huấn ông cha, lại giỏi cả tiếng Phạn, tiếng Hán, nên chắc là họ hiểu Tích Quang, Nhâm
Diên, Sĩ Nhiếp là người thế nào. Hoặc chí ít, với phẩm hạnh và học thuật của mình, họ
không cần đến sự truyền dạy gì của mấy “vị” thái thú kia. Mặt khác, gọi là nước Việt ta
bị Bắc thuộc, nhưng thực tế lịch sử cho thấy người Việt ta đã luôn luôn phải chống,
đánh lại nhà nước phong kiến phương Bắc. Sách Đại Việt sử ký toàn thư của ta còn ghi:
Năm Đinh Sửu 137, người ở huyện Tượng Lâm là Khu Liên nổi lên đánh phá quận,
huyện. Năm Mậu Dần 138, tháng 5, Thị ngự sử Giả Xương cùng các châu, quận hợp
sức đánh quân Khu Liên không được, bị Khu Liên vây đánh hơn một năm binh lương
không tiếp tế được. Năm Canh Tý 160, người quận Cửu Chân lại nổi lên đóng giữ quận
Nhật Nam. Năm Đinh Mão 187, người dân nổi lên giết chết Thứ sử Chu Phù khiến
châu quận rối loạn. Năm Mậu Thìn 248, dưới sự lãnh đạo của Bà Triệu, người Cửu
Chân lại nổi lên đánh hãm thành ấp, châu quận!.. Đó là những cuộc đọ sức liên miên,
gian nan, sống còn với kẻ thù, làm đà để tiến tới thắng lợi đỉnh cao của Lý Nam Đế lập
nên nhà nước Vạn Xuân của người Việt ta vào năm 544, dựng cung Vạn Thọ làm nơi
triều hội. Lấy Triệu Túc làm Thái phó, bọn Tinh Thiều, Phạm Tu làm tướng văn, tướng
võ (ĐVSKTT).
Chúng tôi đang viết tiểu luận văn học, thực lòng không muốn sa vào lĩnh vực sử
học, chỉ muốn gợi lên không khí lịch sử một thời khá đặc biệt, để hiểu cho thấu văn
học, ngữ ngôn của thời kỳ lịch sử đó, rất mong bạn đọc hiểu cho. Cũng xin nhìn rộng ra
quốc tế một chút: Một số nước thuộc Đông Á và Đông nam châu Á bị chịu ảnh hưởng
của văn hóa Hán, trong đó có Nhật Bản. Bằng nhiều con đường, chữ Hán vào nước ta
từ thế kỷ II. Vào thế kỷ V, chữ Hán mới được truyền sang Nhật Bản. Sau đó hơn 3 thế
kỷ, từ cơ sở cấu trúc của chữ Hán, người Nhật đã sáng tạo nên chữ Hiragana. Những
năm từ 712 đến 720, nền văn học thành văn của Nhật Bản đã có những tác phẩm quy
mô khá lớn, tiêu biểu là cuốn Huyền sử lập quốc, một tập sử biên niên (gần như là
chuyện sử), của Nihonshoki, gồm cả phong dao, như Kinh thi của Trung Quốc, nhưng
hiện đại và có tính hệ thống hơn. Đến năm 759, Nhật Bản đã có bộ tuyển tập Ngàn
phiến lá, gồm 4500 bài thơ. Nhiều bài thơ trong Ngàn phiến lá chứa đựng những vẻ đẹp
tinh tế của tâm hồn Nhật Bản và sự mong manh, đẹp đẽ lạ lùng của thiên nhiên nước
Nhật, nên đã và đang được dịch sang nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới. Đến thế kỷ IX,
văn chương Nhật Bản đã bước sang Thời kỳ cố điển, nhiều nhà nghiên cứu còn gọi là
“Thời kỳ hoàng kim văn học” của Nhật Bản. Thời kỳ này, văn chương Nhật đã xuất
hiện một tài năng rất lớn là Ono No Komachi (834 – 880). Bà là một trong sáu thi sĩ
lừng danh hàng đầu của thơ ca Nhật thời cổ. Năm 905, nước Nhật có tập thơ nổi danh
thế giới, là bộ Cổ kim thi, gồm 1111 bài thơ tiêu biểu trong kho tàng thơ ca Nhật Bản,
trong đó có 18 bài thơ của nữ sĩ Ono No Komachi. Giai đoạn này, chữ Hiragana đã trở
nên rất phổ thông. Trong sinh hoạt văn hóa cung đình, một số phi, tần, các nàng tiệp dư
và cung nữ đã sáng tác văn, thơ bằng chữ Hiragana. Chúng tôi xin lưu ý với bạn đọc
rằng, từ thế kỷ XII các nhà thơ nước Việt ta mới sáng tác nhiều bài thơ, phú bằng chữ
Nôm. Và, bộ tuyển thơ có quy mô sớm nhất của Việt Nam mà đến nay được biết là Việt
9
âm thi tập gồm 700 bài, do Phan Phu Tiên (thế kỷ XV) sưu tầm, biên soạn, ra đời muộn
hơn Ngàn phiến lá của Nhật Bản 7 thế kỷ!
So sánh một chút về tiến trình phát triển ngữ ngôn, văn chương và văn hóa của
nước Việt ta với Nhật Bản, chúng tôi muốn nhấn mạnh với bạn đọc: Dù vào thế kỷ II
và III người Nhật chưa có được những tác phẩm của các tác giả quan trọng như Mâu
Bác, Khương Tăng Hội (mà chúng tôi nêu ở trên), nhưng từ thế kỷ VI đến thế kỷ VIII
dân tộc Nhật Bản đã đạt được những thành tựu về ngữ ngôn và văn chương thật lớn và
sớm hơn dân tộc ta rất nhiều! Nêu lên điều khác biệt này, chúng tôi muốn nói đến căn
nguyên lịch sử của nó. Từ sau năm 43 đến khi Lý Nam Đế lập nên được nhà nước Vạn
Xuân, dân Việt ta bị gọi là Bắc thuộc, nhưng thực chất là liên miên hơn năm trăm năm
trời chống, đánh lại nhà nước phong kiến phương Bắc để tồn tại, và vô cùng quan trọng
là để không bị chúng đồng hóa (như chúng tôi đã nói tới ở trên). Do lợi thế địa chính
trị, người Nhật Bản không phải chịu tình cảnh như người Việt ta, nên nước Nhật tập
trung sức lực vào việc kiến tạo văn hóa và văn minh của mình. Từ cuối thế kỷ V, triều
đình Yamato đã được đặt ở vùng Asuka, và Yamato là danh từ được dùng để gọi chung
cả nước Nhật Bản. Họ đã có quan hệ sâu rộng với vương quốc Gaya trên bán đảo Triều
Tiên. Thời kỳ này người Nhật tạo nên được những bước tiến quan trọng về văn hóa
nghệ thuật, chính trị và đời sống xã hội. Thái tử Shotoku (574 – 622) được xem là bộ
óc vĩ đại của triều đình Yamato. Năm 593, với tư cách Nhiếp chính, ông ban hành Hiến
pháp 17 điều và Quan chế 12 bậc, thực sự tạo nên một bộ máy hành chính vững vàng.
Để tỏ rõ vị thế độc lập, tự chủ, tự cường của Nhật Bản, Thái tử Shotoku đã gửi đoàn sứ
giả đầu tiên sang triều đình Nhà Tùy, Trung Quốc, trình bức Quốc thư: “Thiên tử nước
Mặt trời mọc gửi thư này tới Thiên tử nước Mặt trời lặn”.
Còn nước Việt ta, ngay sau khi lập nên được nhà nước Vạn Xuân một thời gian
ngắn, lại phải tiếp tục nhiều năm trời chống, đánh giặc xâm lược cùng chính sách đồng
hóa của kẻ thù phương Bắc, cho đến thế kỷ X với Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng và Lê
Đại Hành mới giành lại được quyền độc lập dân tộc, tự chủ về văn hóa. Tuy nhiên,
chính trong thời gian dằng dặc gian khổ, đau thương đó, những truyền thuyết, thần
thoại về dựng nước, giữ nước và những biểu tượng anh hùng dân tộc vẫn được lưu giữ,
nuôi dưỡng phát triển thêm trong thẳm sâu tâm hồn người Việt, tới thế kỷ XIV, Lý Tế
Xuyên và Trần Thế Pháp sáng tạo nên Việt điện u linh và Lĩnh Nam trích quái, và đã
được một số tác gia các đời sau chỉnh sửa bổ sung, bổ khuyết thêm. Hai tác phẩm đó là
dấu mốc quan trọng trên tiến trình Văn học thành văn của Việt Nam ta!
3. Độc lập dân tộc khiến văn mạch Việt được khơi sâu, mở rộng
Trước khi luận bàn về văn mạch Việt được khơi sâu và mở rộng theo dòng chảy
lịch sử, chúng tôi muốn trình bày đôi chút về ngọn nguồn dân tộc Việt. Dân tộc Việt ta
hình thành rất sớm, với di chỉ Văn hóa Hòa Bình từ 12000 năm TCN đến 10000 năm
TCN, (còn di chỉ văn hóa đồ đá mới Ngưỡng Thiều của Trung Quốc ở Thủ đô nhà
Thương xưa được nhà khảo cổ học Thụy Điển Johan Andersson phát hiện năm 1921,
có niên đại khoảng 5000 năm tới 3000 năm TCN). Vậy nên, các cộng đồng người Việt
từ thời cổ đại đã liên kết cùng nhau để cộng sinh, như quy luật tự nhiên, để chống thiên
tai và thú dữ, để tạo nên cây lúa nước bằng cách chọn lọc từ những giống lúa hoang dã,
rồi từ đó tạo nên nghề trồng lúa nước sớm nhất thế giới. Và sau đó, lại phải chống giặc
10
ngoại xâm, bảo vệ địa bàn cư trú, và cao hơn là giữ lấy quyền sống cho dân tộc mình từ
khi có nhà nước Văn Lang. Vâng, mấy nghìn năm sau, tới năm 1942, Chủ tịch Hồ Chí
Minh vĩ đại đã viết: “Hồng Bàng là tổ nước ta/ Nước ta khi ấy gọi là Văn Lang…”
Văn mạchViệt ta được nuôi dưỡng, bồi bổ bởi cả hệ thống các giá trị văn hóa
Việt Nam khởi đầu từ các truyền thuyết, thần thoại nói về đất nước về các nhân vật lịch
sử từ Nhà nước Văn Lang thuở các vua Hùng cho đến các giai đoạn lịch sử sau này. Có
thể nói, hai tác phẩm Việt điện u linh (VĐUL) và Lĩnh Nam trích quái (LNTQ) đã được
nuôi dưỡng và bồi đắp bằng tinh hoa của các giá trị văn hóa dân tộc Việt ta từ thời xưa
cổ cho đến thời đại mà Lý Tế Xuyên và Trần Thế Pháp được sống!
Nội dung quán xuyến của VĐUL gắn bó mật thiết với lịch sử và tôn giáo, tín
ngưỡng của người Việt ta trong thời kỳ ngữ ngôn và văn hóa Việt bị giặc phương Bắc
chèn ép dữ dội. Thêm nữa, về nghệ thuật văn chương, lối truyện chí quái thời Lục Triều
và sau đó là truyện truyền kỳ thời Tùy, Đường có ảnh hưởng mạnh đến không ít nước
phương Đông. Nhưng, Lý Tế Xuyên đã không bị ảnh hưởng lối viết của văn nhân
Trung Quốc. Các chuyện sử trong VĐUL được viết ngắn gọn, giản dị, nhất là tránh
được lối sử dụng tình tiết quái đản cuả truyện chí quái, hoặc lối văn bay bướm, hoa mỹ
của văn truyền kỳ. Do vậy, người đọc tiếp nhận nó như tiếp nhận những vấn đề lịch sử,
tín ngưỡng và tôn giáo của nước Việt mình. Tác phẩm LNTQ của Trần Thế Pháp gồm
những truyền thuyết và thần thoại ông biên soạn thành những chuyện sử, nhằm giải
thích về nòi giống người Việt và nguồn gốc dân tộc Việt ta. Đời sống vật chất và tinh
thần của người Việt cổ cũng được tác giả LNTQ kể giản dị, không quái đản cũng không
hoa mỹ, phô trương. Đặc biệt, các nhân vật lịch sử là những anh hùng có tài năng phi
thường, đức độ và công tích lớn lao, hành xử rất tự nhiên, như được thiên phú. Truyện
Hồng Bàng thị kể về đời sống cổ xưa nhất của nước Việt ta, về giang sơn và nguồn gốc
giống nòi người Việt (con rồng cháu tiên). Truyện cho biết từ tục xăm mình đến tục
cưới xin, ma chay, đến cách ăn, cách ở “bắc cây làm nhà để tránh hổ sói”. Sự kiện
phân chia năm mươi người con theo mẹ lên núi, năm mươi người con theo cha xuống
biển là phản ánh công cuộc khai phá, mở rộng địa bàn sinh sống của tổ tiên ta. Còn
Truyện Man Nương là nói về tín ngưỡng xưa cổ của người Việt là tín ngưỡng thờ Mẫu;
và nó cũng mở đầu giai đoạn người Việt ta tiếp nhận đạo Phật; và nữa, với việc Man
Nương dùng cây trượng của sư Đồ-lê giao cho cứu dân chúng thoát khỏi đại hạn, cũng
nói đến vai trò của người mẹ là rất lớn đối với nền nông nghiệp lúa nước của dân tộc
Việt ta... Có thể nói, viết về những nhân vật điển hình trong chuyện sử mà Trần Thế
Pháp tỏ ra thật tài ba trong tạo dựng những chân dung có cá tính và cả số phận, gây
được ấn tượng mạnh, khiến độc giả thấu hiểu phẩm cách và đạo lý của người Việt cổ.
Hai tác phẩm quan trọng này đạt được phẩm giá như vậy, ngoài tri thức, tài nămg, lý
tưởng văn chương của Lý Tế Xuyên và Trần Thế Pháp thực sự cao đẹp, các ông đã viết
về đời sống của dân tộc Việt với một tâm hồn yêu nước thương nòi!
Ở trên chúng tôi đã viết “VĐUL và LNTQ đã được bồi đắp bằng tinh hoa cuả
các giá trị văn hóa dân tộc Việt ta từ thời xưa cổ cho đến thời đại mà Lý Tế Xuyên và
Trần Thế Pháp được sống!”. Vâng, thời hai ông được sống, là thời Trần. Tinh hoa văn
hóa thời cổ cùng những huyền thoại, truyền thuyết lưu truyền trong tâm thức người
Việt qua rất nhiều đời, đến thời Trần đã vào nội dung VĐUL và LNTQ. Còn một điều
11
nữa vô cùng quan trọng, đó là vị thế văn chương của nhà văn mà chúng tôi cho là vị thế
của người làm chủ nghệ thuật văn học nói riêng và làm chủ đất nước nói chung. Vị thế
đó, do chính những vận động lịch sử nước Việt ta giai đoạn từ khi Ngô Quyền đánh tan
quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938 mở ra thời kỳ độc lập lâu dài của Việt
Nam ta cho đến đời Trần với những công tích vô cùng lừng lẫy, đã tạo dựng cho Lý Tế
Xuyên và Trần Thế Pháp!
Phải chăng, từ thời kỳ bắt đầu độc lập lâu dài của nước Việt ta, các nhà làm Văn
học sử hiện đại nước ta đã coi là thời kỳ Văn học Trung đại Việt Nam, nên đã xác
quyết đó là thời kỳ bắt đầu có Văn học thành văn? Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng, đến
Lê Đại Hành là những triều đại độc lập của nước Việt ta, có thành tựu rất lớn về võ
công, đánh tan giặc phương Bắc và dẹp nội loạn trong nước. Có một dấu mốc trong lịch
sử văn học thành văn Viêt Nam, là Quốc tộ (Phúc nước), bài thơ cổ nhất hiện còn giữ
được qua sách Thiền uyển tập anh, như chúng tôi dã nói tới ở đầu thiên tiểu luận này. Ở
thời điểm Đỗ Pháp Thuận viết bài thơ, nước Việt ta là một quốc gia độc lập, thống nhất
đang vươn lên mạnh mẽ. Bài thơ chỉ 4 câu mà “chứa đựng một tư tưởng sâu sắc, và mở
đầu cho một tiến trình văn học dân tộc. Đó là tiến trình của một nền văn học luôn gắn
chặt với những vấn đề có liên quan tới vận mệnh đất nước”- (Chân dung văn hóa Việt
Nam trong lịch sử Việt Nam - Tạ Ngọc Liễn). Đồng thuận với nhận định của nhà văn -
sử gia Tạ Ngọc Liễn, và chúng tôi cũng muốn nói thêm rằng: Tư thế nước Việt ta thời
Lê Đại Hành đã tạo cho cái tôi trữ tình của Đỗ Pháp Thuận một tâm thế mới chưa từng
có trong các nho gia những đời trước, nên ông mới có được tác phẩm Phúc nước!
Chúng tôi cho rằng, với nền độc lập tự chủ, Văn mạch Việt đã bắt đầu được khơi
sâu, mở rộng. Luận bàn về Văn mạch Việt, không thể không nói kỹ về tác gia lớn bậc
nhất thế kỷ XI, cũng là Hoàng đế Thái tổ nhà Lý.
Truyền thuyết xuất thân và sự thật lịch sử về Lý Thái Tổ đan xen nhau một cách
khác thường! Sách ĐVSKTT ghi: “Vua họ Lý, húy Công Uẩn, người châu Cổ Pháp (nay
là đất huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh), mẹ họ Phạm, đi chơi chùa Tiêu Sơn cùng với người
thần giao hợp rồi có chửa, sinh vua ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất 974, niên hiệu Thái
Bình thứ 5, thời Đinh…” Một sự thật lịch sử nữa có ý nghĩa quan trọng quyết định cuộc
đời và sự nghiệp của Lý Thái Tổ, đó là những hành trạng của thiền sư Vạn Hạnh. Ngài
họ Lý, người làng Cổ Pháp, tức làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh ngày nay). Chưa rõ
năm sinh, chỉ biết sách ĐVSKTT ghi việc năm Ất Sửu 1025 có đoạn: “Sư Vạn Hạnh
chết (Vạn Hạnh không bệnh mà mất, người bấy giờ nói là hóa thân). Sử thần Ngô Sĩ
Liên nói: Sư Vạn Hạnh mới trông thấy Lý Thái Tổ, biết là người khác thường, đến khi
thấy sét đánh thành vết chữ thì đoán biết thời thế thay đổi”. Một số thư tịch cổ và nhiều
chuyện truyền tụng trong dân gian cho biết, thiền sư Van Hạnh thông minh xuất chúng,
năm 21 tuổi đã theo học đạo với Lục Tổ Thiền Ông. Mỗi lời Ngài nói được người đời
coi như sấm ngữ. Ngài bày mưu cho Lê Đại Hành phá Tống, Bình Chiêm; sau này
chính Ngài vận động đưa Lý Công Uẩn lên ngôi, lập nên nhà Lý… Đến cuối thế kỷ
XX, các nhà nghiên cứu đã biết thêm những tư liệu mới nữa về xuất thân của Lý Thái
Tổ, trong đó có tấm bia Lý gia minh trạch ở chùa Tiêu. “Mẹ (vua) họ Phạm” như
ĐVSKTT ghi, nay ta biết tên đầy đủ của mẹ vua là Phạm Thị Ngà. Thời trẻ, bà làm thủ
hộ, chuyên quét sân, chăm vườn và nhang khói ở chùa Minh Châu. Chùa này nằm trong
12
cụm chùa nổi tiếng là trung tâm Phật giáo lớn, gồm Phật Tích, Đạm, Tiêu Sơn, Tràng
Liên… Tại đây, thiền sư Vạn Hạnh thấy bà bà người tươi tốt, phúc hậu, đã dẫn mạch
cho bà đặt mộ phụ mẫu để sau này được vượng phát. Đó là khu mộ tại rừng Miễu. Khi
mang thai, bà Phạm Thị Ngà ra làng ở và sinh con. Khu vực xóm Đường, nay còn thấy
những dấu tích như bàn đẻ, dao cắt rốn bằng đá. Theo sách ĐVSKTT thì: “Vua sinh ra
mới ba tuổi, mẹ ẵm đến nhà Lý Khánh Vân. Khánh Vân bèn nhận là con nuôi”. Nhà sư
Lý Khánh Vân là người em của thiền sư Vạn Hạnh. Và rồi, năm lên bảy tuổi, Lý Công
Uẩn được thiền sư Vạn Hạnh nuôi dạy chu đáo. Tuấn tú, thông minh, lại được một
người xuất sắc nuôi dạy, rèn giũa cho, nên Lý Công Uẩn sớm có được học vấn và trí
tuệ hơn người. Nhiều truyền thuyết và sấm ký lạ lùng về Lý Công Uẩn, là do thiền sư
Vạn Hạnh tạo nên. Đó là bước chuẩn bị để đưa Lý Công Uẩn lên ngôi cao sau này. Có
uy tín lớn với triều đình nhà Đinh, sau lại được Lê Hoàn rất nể trọng, nên thiền sư Vạn
Hạnh đã tiến cử Lý Công Uẩn vào bộ máy quyền lực nhà Lê, làm đến Điện tiền chỉ huy
sứ. Rồi khi Lê Ngọa Triều băng hà, Lý Công Uẩn được triều thần tôn làm Hoàng Đế.
Được giáo dục sâu sắc về văn hóa Phật giáo, rồi được giới sư sãi ủng hộ lên ngôi
cao, Lý Thái Tổ rất trọng Phật giáo và ưu đãi tăng ni. Ông cùng vương triều Lý khai
mở một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên văn minh Đại Việt, bắt đầu bằng việc chọn Đại La
làm Kinh Đô và cho đổi tên là Thăng Long. Sinh trưởng ở châu Cổ Pháp, cách không
xa thành Đại La. Rồi lớn lên, làm quan ở Hoa Lư (Ninh Bình), đi, về đều qua vùng đât
Đại La, nên Lý Thái Tổ hiểu rõ vùng thắng địa đó. Thế nên thật tự nhiên, như ĐVSKTT
chép: “Vua thấy thành Hoa Lư ẩm thấp chật hẹp, không đủ làm chỗ ở của đế vương,
muốn dời đi nơi khác, tự tay viết chiếu…”. Và đó là Thiên đô chiếu (Chiếu dời đô), Lý
Thái Tổ viết mùa xuân năm Canh Tuất 1010, niên hiệu Thuận Thiên thứ nhất. Văn bản
Chiếu dời đô, hơn ngàn năm qua, có được chép trong sách HoàngViệt văn tuyển của
Bùi Huy Bích (1744 - 1818) và sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục do
Quốc sử quán triều Nguyễn soạn, mà cả Bùi Huy Bích và Quốc sử quán triều Nguyễn
đều sao chép từ sách ĐVSKTT. Do vậy, ở đây chúng tôi trích bản Chiếu dời đô trong
sách ĐVSKTT:
“(Nhà vua) tự tay viết chiếu rằng:
“Xưa kia nhà Thương đến đời Bàn Canh(1) năm lần dời đô, nhà Chu đến đời
Thành Vương(2) ba lần dời đô; đâu phải các vua thời Tam đại(3) liều vì riêng mình, tự ý
bậy bạ chuyển đi nơi khác, mà bởi họ mưu tính lớn lao, chọn ở nơi trung tâm, làm kế
muôn vạn đời cho con cháu về sau. Trên cung mệnh trời, dưới dựa theo ý dân, nếu thấy
thuận tiện thì thay đổi, cho nên phúc nước dài lâu, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai
nhà Đinh, Lê mới vì riêng mình, quên mệnh trời, bước đạp bừa lên dấu vết Thương,
Chu, cứ yên ở mãi nơi ấp(4) nhỏ của mình, đến nỗi đời chẳng được dài, vận số ngắn
ngủi, trăm họ hao tổn, muôn vật không thích hợp, Trẫm rất thương xót, không thể
không di dời khỏi đó. Huống chi thành Đại La, đô(5) cũ của Cao Vương(6) ở khu vực
giữa trời đất, có được thế đất rồng cuốn, hổ ngồi; chính vị Đông, Tây, Nam, Bắc; tiện
nghi phía trước là sông, phía sau là núi. Khu vực ấy rộng rãi bằng phẳng; đất ở đấy
cao ráo, sáng sủa, dân cư không bị ngập chìm tối tăm khổ sở, muôn vật thịnh vượng,
tốt tươi.
13
Ngẫm xem khắp nước Việt, thấy đây là vùng đất có phong cảnh tốt đẹp nhất,
thực là nơi trọng yếu cho bốn phương trời hội tụ; là đất kinh sư của kinh sư muôn đời.
Trẫm muốn nhân địa lợi ấy để định đô ở đó, các khanh nghĩ thế nào?”
Ngay sau khi ban Chiếu, tháng 7 năm 1010, như ĐVSKTT ghi: “Vua từ thành
Hoa Lư, dời đô ra kinh phủ ở thành Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng
hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là Thăng Long… Lại xây dựng các
cung điện trong Kinh thành Thăng Long”. Bên trong thành Thăng Long quy hoạch làm
hai khu vực chính. Khu trung tâm là Cung Thành, có cửa Đoan Môn dẫn vào. Trong
khu Cung Thành dựng điện Càn Nguyên làm nơi vua coi chầu, bên tả làm điện Tập
Hiền, bên hữu dựng điện Giảng Võ. Chính giữa là điện Cao Minh. Sau điện Càn
Nguyên có các cung Long An, Long Thụy làm nơi vua nghỉ, lại có cung Thúy Hoa,
Ngọc Bội… Khu vực rộng lớn bao quanh Cung Thành, gọi là Hoàng Thành, có nhiều
dinh thự của các quan và biệt điện để đôi khi vua đi tuần có chỗ tạm nghỉ. Tại khu
Hoàng Thành dần dần dựng những chùa, tháp. Những thợ khéo tay được vào ở trong
khu Hoàng Thành, sống từng phường riêng, chuyên làm các đồ cho triều đình dùng.
Đấy là hạt nhân tạo nên các phường của Thăng Long những năm về sau. Khu Hoàng
Thành có ngôi điện Hàm Quang do Lý Thái Tổ cho lập dựng trên một quả núi đất bên
sông Tô, rất nguy nga, lợp toàn ngói bạc. Theo học giả Doãn Kế Thiện thì, Hoàng thất
nhà Lý thường ngự chơi ở điện này để xem bơi thuyền trên sông Tô. Phía Nam khu
Hoàng Thành có lập đàn Nam Giao và đàn Xã Tắc để tế trời, đất, lại còn có khu ruộng
Tịch Điền để tháng hai hàng năm vua tự thân đi cày, khuyến khích nghề nông. Lại cho
dựng nhiều kho tàng, đắp thành, đào hào. Bốn mặt thành mở bốn cửa Tường Phù,
Quảng Phúc, Đại Hưng và Diệu Đức… Kinh thành Thăng Long buổi ban đầu đã được
tạo dựng to lớn, và đặc biệt là đầy triển vọng phát triển! Đúng như tầm nhìn sáng suốt
của Lý Thái Tổ đã thấy trước, và viết thật hào sảng: “Đây là vùng đất có phong cảnh
tốt đẹp nhất, thực là nơi trọng yếu cho bốn phương hội tụ; là đất kinh sư của kinh sư
muôn đời”.
Chiếu là loại hình văn bản quan trọng, truyền cho mọi người một chủ trương lớn
của vua, chính sách của triều đình về chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục…, vậy nên
ngôn ngữ Chiếu phải có sức mạnh trong cuộc sống xã hội. Chiếu dời đô sống trong đời
sống tinh thần dân tộc Việt ta đã hơn ngàn năm! Trường tồn như vậy, bởi nó là tư
tưởng, là lịch sử, là văn hóa, nhìn nhận như vậy, chúng tôi thấy người xưa thật có lý khi
nhận định Văn học Việt mang đặc tính lớn là văn - sử bất phân. Việc học giả Bùi Huy
Bích hơn hai thế kỷ trước đã chọn đưa Chiếu dời đô vào công trình Hoàng Việt văn
tuyển cho thấy, ông thật tinh tường khi coi Chiếu dời đô là một tác phẩm văn chương
tinh hoa của nước Việt ta. Có thể nói, Lý Thái Tổ là người khai sáng Kinh đô Thăng
Long, thì cũng có thể nói, Lý Thái Tổ là người mở đầu cho dòng văn học viết về Thăng
Long - Hà Nội! Và, nếu nhìn từ góc độ văn học sử, thì phải ghi nhận Chiếu dời đô là
áng văn chương quan phương bất hủ, được nảy sinh trong xúc cảm và trí tuệ của Lý
Thái Tổ cùng lúc ông quyết định sáng lập Kinh đô Thăng Long cho dân tộc Việt Nam!
……………….
Chú thích:
(1): Bàn Canh, vua thứ 17 nhà Thương (thế kỷ XVI – XI trước công nguyên)
14
(2): Thành Vương, vua thứ 3 nhà Chu (thế kỷ XI – VIII trước công nguyên)
(3): Tam đại, là ba đời Hạ, Thương, Chu ở Trung Quốc
(4): Ấp, theo chế độ hành chính thời cổ, lớn gọi là đô, nhỏ gọi là ấp.
(5): Đô, đây là nơi chính quyền cấp cao nhất ở.
(6): Cao Vương, chỉ Cao Biền, viên quan đứng đầu bộ máy cai trị của nhà Đường ở Giao
Châu (nước ta), khoảng năm 866 đã cho đắp thành Đại La.
4. Văn - sử - triết bất phân
Văn chương thành văn là địa hạt của những người chí ít phải thông thạo chữ
nghĩa, có học vấn cao và hiểu biết sâu sắc về đời sống xã hội. Thời tiền Lê và thời Lý,
việc học của người Việt ta còn rất hạn chế. Hạn chế thứ nhất là học chữ thì chỉ học chữ
Hán. Hạn chế thứ hai là, hầu hết người được học hành tới nơi tới chốn đều thuộc giới
tăng ni, được đào tạo trong các chùa chiền. Bởi thế, đây là thời xuất hiện nhiều nhất các
văn nhân là thiền sư và nhà chính trị. Hai tác gia tiêu biểu chúng tôi vừa nêu ở trên, là
Đỗ Pháp Thuận và Lý Thái Tổ, là ví dụ tiêu biểu. Bởi vậy, về thơ thì chủ yếu là thơ
Thiền, như thơ của Từ Lộ, Mãn Giác, Lã Định Hương…; về văn thì chủ yếu ghi lại
những việc lớn trong đời sống xã hội, đất nước, như văn của Lý Thái Tổ, Lý Thường
Kiệt, Lý Nhân Tông… Các thiền sư đời Lý làm thơ trước tiên để diễn tả chân lý thiền
bản thân họ đã nhận thức được, nhằm khai mở trí tuệ cho học trò, đưa họ tới chỗ chứng
ngộ. Bởi thế, trong thơ Thiền đời Lý chứa đựng nhiều vấn đề triết học Phật giáo, biểu
hiện qua những khái niệm như vô, hữu, sắc, không, thân tâm, pháp tính, thực tướng...;
và, vấn đề sống, chết (sinh, tử) cũng được nói đến khá nhiều. Có thể nói, Thiền sư Vạn
Hạnh tà tác giả mở đầu dòng thơ Thiền với bài Thị đệ tử (Bảo học trò): Thân như điện
ảnh hữu hoàn vô,/ Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô./ Nhậm vận thịnh suy vô bố úy,/
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.- (Tạ Ngọc Liễn phiên âm, và dịch nghĩa):
Thân người như bóng chớp, có rồi không,
Muôn cây xuân tươi, thu lại khô héo.
Đạt tới nhậm vận thì không còn sợ hãi chuyện thịnh, suy,
Thịnh hay suy cũng như giọt sương trên ngọn cỏ.
Trong các Thiền sư đời Lý, có Mãn Giác, tên thật là Lý Trường (1052 - 1096).
Ông là một một thi sĩ đặc sắc, tác giả một trong những bài thơ Thiền hay nhất đời Lý,
bài Cáo tật thị chúng (Cáo bệnh bảo mọi người):
Xuân qua trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa nở
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu cái già tới
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước nở nhành mai.
Ngay trong thời Lý, quân dân nước Việt ta còn phải tiếp tục chiến đấu với giặc
phương Bắc. Một trong những cuộc chiến đó, do Lý Thường Kiệt chỉ huy, đánh tan
quân Tống trên trận tuyến sông Cầu (năm 1076). Và gắn liền với chiến công lịch sử này
còn có bài thơ thần (Nam quốc sơn hà), tương truyền là của Lý Thương Kiệt khích lệ,
cổ vũ tinh thần quyết chiến và quyết thắng của quân dân ta: Sông núi nước Nam vua
Nam ở/ Rành rành đã định tại sách trời/ Cớ sao quân giặc sang xâm phạm?/ Chúng bay
15
sẽ bị đánh tơi bời. Lời thơ khẳng định chủ quyền về bờ cõi, cương vực và chủ nhân của
nước Việt Nam, là người Việt. Vậy nên, xưa nay người Việt ta coi bài thơ đó là Lời
tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc!
Triều Lý dài 216 năm, vậy mà cho đến nay chúng ta được biết chỉ có 126 bài thơ
hoặc văn đời Lý. Như vậy mới hiểu Từ Lộ để lại 4 bài thơ được người đời gìn giữ đến
ngày nay, là rất quý hiếm. Từ Lộ là tên thật, pháp danh của ông là Từ Đạo Hạnh. Chưa
thấy tài liệu nào ghi ngày sinh của Từ Lộ, chỉ biết ông sống vào thời Lý Nhân Tông
(1072 - 1128). Trong 4 bài thơ ông để lại, Có và không là một bài thơ bất hủ trong kho
tàng thơ ca dân tộc ta (phiên âm): Tác hữu trần sa hữu,/ Vi không nhất thiết không./
Hữu, không như thủy, nguyệt,/ Vật trước hữu không không. Thơ thiền, viết chín trăm
năm trước, nhưng thật trữ tình, hình tượng lớn lao, xúc cảm sâu lắng lạ thường. Đã
không ít người dịch Có và không ra quốc văn, ở đây, chúng tôi dùng bản dịch ra thể lục
bát tương truyền là của Thiền sư Huyền Quang (1254 - 1334), cũng là nhà thơ danh
tiếng đời Trần:
Có thì có tự mảy may,
Không thì cả thế gian này cũng không.
Vầng trăng vằng vặc in sông,
Chắc gì có có, không không mà tìm.
Thơ thời Lý thoạt đầu chứa đựng nhiều vấn đề triết học Phật giáo, nhưng trong
nó cũng chất chứa không ít những trăn trở, day dứt ngay giữa cõi trần đời, để tìm tới
chân lý trong cõi con người. Đó là đặc tính vì con người mà viết, đã có từ rất lâu đời
trong văn học dân gian của người Việt ta. Suy cho cùng, triết lý thơ thiền cũng là triết lý
của con người trong đời sống xã hội, là quan hệ của con người với tự nhiên, với vũ trụ.
Và có thể nói, đến chặng này Văn học Việt Nam ta đã mang đầy đủ một đặc tính lớn là
Văn - sử - triết bất phân!
Về thơ đời Lý, chúng tôi xin được nhắc tới một tác giả, nói theo ngôn ngữ ngày
nay thì ông là “một nhà văn người Việt ở hải ngoại đầu tiên trong lịch sử” – Hoàng thân
Lý Long Tường, em của vua Lý Cao Tông (1176 – 1210). Khi gặp biến cố nhà Trần
đoạt ngôi nhà Lý, Lý Long Tường đã vượt biển sang Cao Ly, lập nghiệp ở vùng Hoa
Sơn. Thời quân xâm lược Mông Cổ đánh sang Cao Ly, ông đã đứng ra lãnh đạo quân
dân Cao Ly đánh quân Mông Cổ. Ngoài công tích đó, ông còn có công mở mang, phát
triển văn hóa miền duyên hải phia tây Cao Ly. Ông còn để lại bài thơ: Quốc dị Trung
nguyên quốc/ Nhân đồng thái cổ nhân/ Y quan Đường chế độ/ Lễ nhạc Hán quân thần/
Ngân ủng sô tân tửu/ Kim đao khoái tế lân/ Niên niên nhị tam nguyệt/ Đào lý nhất bàn
xuân (Tạ Ngọc Liễn phiên âm, và dịch thơ):
Nước tôi khác nước Trung Hoa
Người đều là người tối cổ
Áo mũ giống chế độ nhà Đường
Lễ nhạc như vua tôi nhà Hán
Rượu mới nấu đựng trong vò bạc
Dao vàng cắt miếng gỏi cá
Tháng hai tháng ba hàng năm
Hoa đào hoa mận nở suốt mùa xuân.
16
Bài thơ này vốn không có đầu đề, Phan Phu Tiên chép trong sách Việt âm thi tập
với một phụ chú: “Theo sách Liệt triều tập, đời Minh (Trung Quốc) thì, bài thơ là của
một sứ thần Nhật Bản làm ra”. Cho đến năm 1994, do phát hiện được tư liệu mới từ
Hàn Quốc, sử gia - nhà văn Tạ Ngọc Liễn đã minh định khá rõ về tác giả. So sánh hai
văn bản, thì hai câu đầu khác nhau, và có mấy chữ khác nhau là ngân - ngọc, sô - khai,
khoái - chước, Tạ Ngọc Liễn cũng đã chứng minh được là do biến động về văn bản, từ
bản gốc ở Cao Ly truyền sang Trung Quốc, rồi Việt Nam. Việc minh định được tác giả
bài thơ trên đã đã trả lời được nghi vấn Phan Phu Tiên đặt ra từ thế kỷ XV.
Viết một chút về hiện tượng Lý Long Tường, chúng tôi rất muốn nói lên nhận
định của mình rằng: Một nhà thơ Việt ở hải ngoại gần tám trăm năm trước, khi viết thơ
về nước mình, hai câu thơ mở đầu đã khẳng định Nước tôi khác nước Trung Hoa/
Người đều là người tối cổ. Vâng, đó là sự sâu dày của đời sống Việt, văn hóa Việt, lịch
sử Việt Nam luôn trong trong tâm can Lý Long Tường và khi ông nhớ thương Tổ quốc,
nó đã trào lên thành thơ!
Dòng chảy lịch sử không ngừng nghỉ bao giờ. Dòng chảy thơ văn của dân tộc ta
cũng vậy, không ngừng được khơi sâu, mở rộng. Từ triết học Phật giáo đi đến một nền
triết học trong đời sống con người Việt trên đất nước đã dựng được nền độc lập lâu dài
và lại có những công tích to lớn trong kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông, như
nhà Trần, chỉ là một đỗi đường lịch sử. Đến thời Trần Nhân Tông (1258 – 1308), lịch
sử nước Việt ta đạt tới đỉnh cao trong công tích giữ nước. Nói dến Trần Nhân Tông,
trước hết phải nói một vị vua anh hùng trong cứu nước, hai lần đánh tan quân Nguyên
Mông. Ông cũng là một nhà thơ đầy khí phách, đã viết lên đuôi chiến thuyền hai câu
thơ đầy niềm tin vào sức mạnh của dân tộc Đại Việt (Tạ Ngọc Liễn dịch thơ): Cối Kê
chuyện cũ ngươi nên nhớ/ Hoan Diễn đang còn chục vạn quân. Hai câu thơ đó, cùng
với hai câu thơ Trần Nhân Tông viết bên lăng Trần Thái Tông lúc làm lễ dâng tù binh
mừng chiến thắng lần thứ ba: Xã tắc hai lần siêu ngựa đá/ Non sông nghìn thuở vũng
âu vàng, đã đi vào lịch sử như một ký ức bất diệt về chiến công bình Nguyên năm 1286
và 1288!
Trần Nhân Tông còn là một dấu mốc lớn trong tiến trình lịch sử tư tưởng Việt
Nam. Sau mười bốn năm làm vua, ông nhường ngôi cho con là Anh Tông, rồi làm Thái
Thượng hoàng, đi tu, và sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, với hiệu là Trúc Lâm
Đại Đầu Đà. Về thực chất, Ngài là một triết gia lớn, đứng đầu một Triết phái của người
Việt ta, là triết phái thiền Trúc lâm Yên Tử. Do vậy, Phật giáo nước ta đương thời đã
phát triển rực rỡ, thể hiện đầy đủ trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam. Triết gia Trần Nhân
Tông cùng các học trò của mình đã kiến giải hầu hết những vấn đề triết học mà Phật
giáo đã đặt ra, như vấn đề tâm, Phật; vấn đề có, không; vấn đề sống, chết… Ngài cũng
là con người của thực tiễn và rất táo bạo. Có lần, một học trò hỏi Điều Ngự Nhân Tông:
“Như thế nào là Phật?”. Ngài trả lời: “Như cám giã dưới cối”. Lại một lần học trò hỏi:
“Lúc giết người không để mắt thì như thế nào?”. Ngài đáp: “Khắp toàn thân là can
đảm”. Là anh hùng, là triết gia, Trần Nhân Tông còn là một thi nhân với tâm hồn phóng
khoáng, rộng lớn. Ngoài vẻ đẹp tao nhã, thơ Trần Nhân Tông còn phảng phất phong vị
thiền, gợi mở cho người đọc một thế giới tinh thần cao khiết (bài Trăng, bản dịch trong
sách Hoàng Việt thi tuyển):
17
Bên song đèn rạng, sách đầy giường
Khí lạnh đêm thu đượm giọt sương
Thức dậy tiếng chày đà lặng ngắt
Trên chùm hoa mộc nguyệt lồng sương.
Văn học thành văn của nước Việt ta ngay từ buổi khởi đầu đã được nuôi dưỡng
từ văn học dân gian cả những tinh hoa về tư tưởng cùng những kinh nghiệm nghệ thuật.
Tuy vậy, thơ văn thời Lý hầu như còn rất ít nói đến từ “dân” (người dân) và từ “nhân”
(con người). Nhưng đến thơ thời Trần, “dân” và “nhân” được các thi nhân nói tới nhiều
trong thơ văn với nội dung rất nhân bản. Nguyễn Sưởng, một thi sĩ có tấm lòng ưu ái
đặc biệt đối với dân thường, thời ấy quen gọi là “thương sinh” (dân đen đầu). Phải
chăng ông cũng như Trần Hưng Đạo, Trần Nhân Tông, Trương Hán Siêu… đã hiểu rõ
vai trò và sức mạnh của người dân trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, nên đã
viết (bài Sông Bạch Đằng): Thùy tri vạn cổ Trùng Hưng nghiệp/ Bán tại quan hà, bán
tại dân (Tạ Ngọc Liễn phiên âm, và dịch thơ):
Ai hay sự nghiệp Trùng Hưng ấy
Nửa do sông hiểm nửa do dân
Trong thơ cổ Việt Nam, có lẽ Nguyễn Ức là người đầu tiên nói tới tình vợ chồng,
(bài Ngày xuân ở nông thôn): Bàng nhân thuyết trước vi quan hảo/ Lãn nọa vô tâm bão
xú thê (Tạ Ngọc Liễn phiên âm, và dịch nghĩa): Người xung quanh đều bảo đi làm quan
tốt/ Lười nhác không nghĩ tới báo đáp người vợ quê. Vua Trần Minh Tông, trong bài
thơ Hành điện Nghệ An, ông bày tỏ niềm thương cảm sâu xa đối với nỗi khổ của người
dân thường: Sinh dân nhất thị ngã bào đồng/ Tứ hải hà tâm sử khốn cùng (Tạ Ngọc
Liễn phiên âm, và dịch thơ):
Dân chúng hết thảy cùng là máu thịt với ta
Nỡ lòng nào để người trong bốn bể phải cùng khốn.
Thế kỷ XIV, văn chương nước ta đã mang tính chuyên nghiệp cao, thể hiện qua
việc các văn nhân rất chú trọng về nghệ thuật thể hiện. Họ đã lập câu lạc bộ thơ, là Thi
xã Bích Động, do Trần Quang Triều (1286 - 1325) chủ trì. Là con cả của Trần Quốc
Tảng, hiệu là Cúc Đường và Vô Sơn Ông, Trần Quang Triều văn hay chữ tốt, lại thông
hiểu binh pháp, từng cầm quân đi đánh dẹp vùng biên cương, làm quan tới chức Nhập
nội kiểm hiệu tư đồ, tước Văn Huệ Vương. Khi về sống ẩn dật ở chùa Quỳnh Lâm,
huyện Đông Triều, ông tập hợp một số danh sĩ tiêu biểu như Nguyễn Sưởng, Nguyễn
Ức, Nguyễn Trung Ngạn… cùng bàn luận văn chương và trao đổi về nghệ thuật sáng
tác thơ. Thơ của nhóm Thi xã Bích Động có khuynh hướng muốn chối từ danh lợi và
luôn quan tâm đến đời sống người dân bằng tấm lòng hết sức ưu ái. Điều rất mới nữa, là
trong thơ họ, cái tôi trữ tình chất chứa những tâm trạng riêng, nỗi buồn và sự cô đơn của
con người. Có thể nói, thơ của nhóm Thi xã Bích Động đã phần nào phản ánh hiện thực
suy vi của xã hội nước ta cuối triều Trần.
Văn học cuối thời Trần còn có những nhà thơ lớn cũng quan tâm, lo lắng nhiều
đến người dân, đến vận nước, nhất là những năm mà quyền hành ở triều đình nằm trong
tay Hồ Quý Ly, đại diện cho một thế lực mới đang lên. Một thi nhân như vậy là Trần
Nguyên Đán. Ông sáng tác khá nhiều thơ, hiện còn 51 bài chép trong các sách Toàn
Việt thi lục, Việt âm thi tập và Trích diễm thi tập… Chúng tôi rất đồng thuận với nhận
18
xét của nhà văn - sử gia Tạ Ngọc Liễn: “Mặc dầuTrần Nguyên Đán là tôn thất nhà Trần,
sống vào giai đoạn nhà Trần ‘‘sắp hết’’, song ở ông không có tư tưởng muốn chống
chọi để níu giữ vương triều của dòng họ mình”. Là người như vậy, nên nỗi khổ mà
người dân đang phải chịu đựng đã trở thành sự ám ảnh, day dứt trong lòng Trần Nguyên
Đán, và nó được ông bày tỏ trong bài thơ Viết tháng sáu năm Nhâm Đần (1362): Niên
lai hạ hạn hựu thu lâm,/ Hào cảo miêu thương hại chuyển thâm./ Tam vạn quyển như
vô dụng xử,/ Bạch đầu không phụ ái dân tâm (Tạ Ngọc Liễn phiên âm, và dịch nghĩa):
Năm nay mùa hè bị hạn, mùa thu bị lụt,
Lúa khô, mạ hỏng tổn hại càng nhiều.
Đọc ba vạn quyển sách không dùng được vào đâu
Bạc đầu luống phụ lòng yêu dân.
Theo chúng tôi, tình cảm nhân hậu và tư tưởng nhân đạo trong thơ Trần Nguyên
Đán đã có ảnh hưởng đậm nét đối với con rể ông, là nhà thơ Nguyễn Phi Khanh (1355
đến khoảng 1428). Nguyễn Phi Khanh là tác gia xuất sắc đại diện cho dòng thơ trữ tình
và nhân đạo, đã tạo nên được những gía trị rất nhân bản trong thơ ca nước Việt ta cuối
thế kỷ XIV. Ông tên thật là Nguyễn Ứng Long, hiệu Nhị Khê, dòng dõi Nguyễn Bặc
thời Đinh, lấy con gái quan tư đồ Trần Nguyên Đán là bà Trần Thị Thái và sinh ra
Nguyễn Trãi. Đã đỗ tiến sĩ khoa Giáp Dần 1374, triều Trần Duệ Tông, nhưng không
được bổ dụng làm quan. Khi nhà Hồ lên, Nguyễn Ứng Long đổi tên thành Nguyễn Phi
Khanh, được Hồ Quý Ly dùng làm Học sĩ Viện Hàn lâm kiêm chức Tư nghiệp trường
Quốc Tử Giám. Năm 1407, cuộc kháng chiến chống Minh của nhà Hồ thất bại, Nguyễn
Phi Khanh cùng nhiều người khác bị bắt đưa sang Trung Quốc, rồi mất bên đó. Qua hơn
70 bài thơ hiện còn của Nguyễn Phi Khanh viết từ khi còn trẻ đến lúc tuổi già “đã xồng
xộc tới”, ta thấy khá rõ hoàn cảnh xã hội thời ông sống, đầy biến động, loạn lạc, dân
tình khổ sở do thiên tai, mất mùa, vì loạn Dương Nhật Lễ, vì giặc Chiêm Thành vào
cướp phá… Bài Vào núi tránh giặc cướp, những câu thơ tả thực, đọc thấy đau nhói:
Mẹ hiền sáu mươi tuổi cách xa ngàn dặm
Một thân một mình loạn lạc hai năm trời…
Vẫn với phong cách tả thực, những câu thơ vẽ nên một bức tranh ngột ngạt (bài
Nỗi xúc động vì việc ở quê xin gửi trình Băng Hồ tướng công):
Ruộng nương nghìn dặm đỏ như lửa cháy
Đồng quê than van không biết cậy trông ai
Thơ ông, nhiều khi như là nỗi đau của một trái tim bất lực giữa cuộc sống đầy tao
loạn, mà ở đấy nhà thơ chỉ là người lữ khách phiêu bạt với bao buồn thương về “thế
đạo” (bài Cảm xúc buổi chớm thu): Khách hoài ủng chẩm khi miên hậu/ Tâm sự phần
hương ngột tọa trung/ Đình ngoại tảo sầu khan lạc diệp/ Thiên biên sái lệ sổ chinh
hồng…(Tạ Ngọc Liễn phiên âm, và dịch thơ):
Khách buồn tỉnh giấc nằm ôm gối,
Lòng nghĩ, ngồi im đốt nén hương.
Sân trước quét buồn trông lá rụng,
Bên trời nhỏ lệ đếm chim hồng.
Bút pháp của Nguyễn Phi Khanh là là bút pháp đại gia, vừa cao sang lại vừa trần
đời: Muôn việc trái ngang, đêm dằng dặc/ Ngậm sầu, trăn trở đếm canh tàn... (bài Mùa
19
thu bị ốm). Hơn bảy trăm năm trước mà cái tôi trữ tình của ông đã mạnh bạo và sâu sắc
đáng kinh ngạc. Có thể nói, thời cuối Trần chớm sang Hồ hiếm thấy những tác gia nặng
lòng với việc của dân, của nước như Nguễn Phi Khanh. Có lẽ, số phận riêng của ông
hòa đồng với thân phận của đại đa số dân chúng, nên mới có được thơ văn như vậy.
Sống gần hết đời với nhiều thăng trầm và tao loạn như thế, còn chưa đủ, mà đến năm
1407, Nguyễn Phi Khanh còn bị giặc bắt đưa sang Trung Quốc. Đó là cuộc chia ly đau
thương nhất, chia lìa các con, bị dứt khỏi quê hương đất nước. Trong cuộc chia ly bi
tráng này, Nguyễn Trãi có theo cha lên đến Mục Nam Quan thì Nguyễn Phi Khanh bắt
con quay về tìm cách báo thù nhà, đền nợ nước.
Việc Nguyễn Trãi sau này trở thành danh nhân văn hóa lớn, anh hùng giải phóng
dân tộc được người đời coi là việc làm nối chí người cha. Lẽ đời thật sâu xa, tư tưởng
và thái độ nhân sinh của Nguyễn Phi Khanh cũng như tài năng đầy cá tính của ông đã
để lại một dấu ấn rất rõ nơi tư tưởng và tâm hồn thi hào Nguyễn Trãi. Bởi, đối với
những bậc hiền tài chân chính, gian nan và khổ đau chỉ làm chí khí lớn hơn, tâm hồn
cao cả hơn, như Nguyễn Trãi đã viết:
Nước càng tuôn đến bể càng cả
Đất một chồng thêm núi một cao...
Người gửi / điện thoại
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét