Nhà thơ, nhà giáo Nguyễn Đức Hạnh – “Khát cháy” để tận hiến
Khát cháy là tập thơ thứ 5 của nhà thơ Nguyễn Đức Hạnh, do NXB Văn học ấn hành giữa năm 2025. Tác giả là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội viên Hội VHNT tỉnh Thái Nguyên, Phó Giáo sư, Tiến sĩ chuyên ngành Ngữ văn, Nhà giáo Ưu tú, nguyên Giám đốc NXB Đại học Thái Nguyên, hiện đang công tác tại Đại học Thái Nguyên.
Trong lĩnh vực giảng dạy và nghiên cứu văn học, PGS.TS. Nguyễn Đức Hạnh đã công bố 4 công trình chuyên sâu. Đó là các tập chuyên khảo: Tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1965-1975 từ góc nhìn thể loại (2008), Văn học Thái Nguyên (2008), Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Chu Lai (2012), Văn học địa phương miền núi phía Bắc (2015). Các công trình trên đây đều là những tài liệu giảng dạy bậc đại học và sau đại học của Đại học Thái Nguyên, có 3 công trình đã được trao giải thưởng VHNT của địa phương và trung ương.

Song hành cùng hoạt động nghiên cứu học thuật, Nguyễn Đức Hạnh còn là cây bút sáng tác giàu nội lực. Đến nay, ông đã xuất bản 1 tập truyện ngắn và 5 tập thơ được ghi nhận trong đời sống văn học đương đại. Riêng về thơ, tiếp sau các tập: Núi khát (2000), Vết thời gian (2014), Khoảng lặng (2016) và Thầm (2020), lần này ông ra mắt Khát cháy gồm 95 bài thơ sáng tác trong khoảng 5 năm gần đây, được in dưới dạng song ngữ Việt – Anh. Phần tiếng Anh do nhà thơ, dịch giả Võ Thị Như Mai thực hiện. Tập thơ thêm một lần minh chứng sự đa dạng và sâu sắc trong tư duy nghệ thuật của một nhà thơ đồng thời là nhà nghiên cứu phê bình văn học, về mối quan hệ tương hỗ giữa nghiên cứu khoa học và sáng tạo nghệ thuật, về những nỗ lực đổi mới thi pháp của một nhà thơ chuyên nghiệp… Khát cháy hiển lộ những khát vọng nhân sinh, tôn vinh cái đẹp từ chính những thương tổn của đời sống. Người đọc nhận ra trong những day trở của nhà thơ không chỉ nỗi đau nhân thế và thời cuộc, mà còn là niềm tin thiện lương của lòng trắc ẩn.
- Đúng như tên gọi, tập thơ Khát cháy thường trực một tinh thần bùng nổ, một sức nóng mãnh liệt, một sự xả thân vị nghệ thuật và vị nhân sinh. Người đọc bắt gặp thi ảnh “ngọn lửa” trong rất nhiều thi phẩm với rất nhiều cảnh huống. Ngọn lửa ấy khi âm thầm bền bỉ, khi bùng lên dữ dội, khi ấm áp chở che, khi thiêu đốt bỏng rát… Ấy là tinh thần khát khao tận hiến đến kiệt cùng, như ống cơm lam cháy đen rồi còn cố bùi thơm (Tôi là ống cơm lam nướng vụng). Ấy là tình yêu đôi lứa, đã yêu thì phải cháy hết mình: “Sót một ngọn lửa là em cháy từ bảy kiếp/ Đi ngang đời một khúc Hạ hồng/ Em cháy làm sôi ấm trà long đong/ Rót mời nhau không uống ủ thơm lòng” (Khúc Hạ hồng). Cũng có khi đó là ngọn lửa hết sức dịu dàng tinh tế: “Ướp mấy cánh sen vào trà ngơ ngác/ Hương sen khóc thầm chỉ nước sôi biết…” Còn đây là tâm niệm của thi nhân với tình yêu: “Có gã làm thơ phải lòng cầu vồng/ Bài thơ cháy dở bập bùng đêm đông” (Nghĩ vụn đêm trắng) và “Từng giây cháy kiệt cùng kệ mai tan nát/ Ghì kiệt cùng như thuỷ triều lên…” (Trước biển). Và đây nữa: “Đường đời như cao tốc nhiều đèn đỏ/ Bất an rình rập xe điên/ Anh như xe cà tàng quên bảo dưỡng/ Chạy đến dốc em thì cháy cả đêm.” (Tạm biệt Phú Yên).
Còn đây là “ngọn lửa” của một nhà thơ, nhạc sĩ, họa sĩ tài danh, tác giả của Quốc ca Việt Nam, nhưng cuộc đời cũng gió mưa dầu dãi: “Kệ mưa đá/ Đốt ba đống lửa thơ-nhạc-hoạ/ Sưởi cho lòng dân tộc/ Rực sáng mặt núi sông…” (Nghĩ về Văn cao).
Có thể nói, tập thơ Khát cháy như một cánh rừng bùng cháy. Để rồi sau mỗi bài thơ của Nguyễn Đức Hạnh, vương vấn trong tâm trí người đọc là những đốm lửa lập lòe, là tia sáng lấp lánh, là tàn tro ủ nóng… Bởi thế, thơ ông đôi khi phi logic truyền thống, phi tuyến tính thông thường, phi nhân vật trữ tình, thậm chí nhiều khi mơ hồ phi chủ đề tư tưởng; nhưng thơ ông vẫn cuốn hút người đọc bằng năng lượng “khát cháy”. Nguồn năng lượng ấy đôi khi bức bối, âm ỉ, đôi khi bừng bừng quyết liệt, như: “Hòn đá yêu thương đập vào sỏi hi vọng/ Thắp lên ngọn đuốc cuối cùng/ May còn lệ em bốc cháy/ Bỏng âm thầm trong im lặng mênh mông…” (Giấc mơ chiều).
- “Lửa lò sao bỏng rát/ Ừ! Dâng hiến cho đời/ Đành non tơ khô quắt/ Thành móc câu rã rời/ Người uống khen dăm tiếng/ Âm thầm đau. Không lời… / Bã trà ôm lấy đất/ Nhìn gót chân của người…” (Bã trà). Những búp chè “non tơ” qua lửa lò bỏng rát để thành thức trà móc câu hảo hạng, làm nên những chén trà thơm ngon dâng tặng cho đời. Thiết nghĩ thế đã là một sự hi sinh hết mình vì con người. Nhưng chưa hết, khi chỉ còn là bã trà, vẫn tiếp tục cống hiến cho đất đai để lại làm nên những búp chè tiếp tục dâng tặng… Đó là tận hiến vì con người. “Khát cháy” trong thơ Nguyễn Đức Hạnh là tâm thức hướng đến cộng đồng, đến số phận con người và những vấn đề của xã hội, của dân tộc. Nói cách khác, “khát cháy” trong thơ ông là những khát khao bức xúc của ý thức công dân và trách nhiệm xã hội của một nhà thơ chân chính. Có những nỗi “khát cháy” xuất phát từ lòng tự hào về Tổ quốc, về nhân dân: “Trầm tích rực kiếm rạch đất thành sông/ Lịch sử thở ù ù rung hang núi/ Hai đứa mình nếu hóa thạch đêm nay/ Thêm vào Lạng Sơn/ Hai ngọn núi ôm nhau mà cháy!” (Đêm Chi Lăng uống say cả Lũy Thề)
Có những nỗi “khát cháy” thao thiết nỗi niềm thương nước, thương dân, tri ân những tiên liệt đã xả thân vì dân, vì nước: “Có lịch sử ngủ mơ trong trang sách/ Có lịch sử như chim bay khắp đất trời/ Bao chuyện kể là bao nhiêu gió/ Thổi vui buồn bay tới nhớ thương thôi/ […]/ Thiên nhiên đẹp mới chỉ là xác đẹp/ Linh hồn là hào kiệt múa bút vung gươm/ Thác Bản Giốc chảy tràn bao truyền thuyết/ Về những anh hùng lấy máu vẽ quê hươn” (Đêm Co Sầu).
Lại có những nỗi “khát cháy” uất hận trước những thế lực và hành vi hủy hoại môi trường, hại dân, hại nước: “Rừng như Mẹ bao dung mà tội nghiệp/ Đất như Cha khắc khổ kiệt cùng/ Cha Mẹ không nói/ Chỉ nỗi buồn đá tảng lăn xuống suối thật trong…” (Nghẹn rừng). Và đây nữa: “Giấc ngủ ngắn dần giấc mơ cũng ngắn/ Toàn gặp người lớn đeo mặt nạ đi phá cỗ trung thu/ Những dòng sông ngạt thở/ Cá voi vào đòi trả rặng san hô…” (Nói giản dị về mùa thu). Rất nhiều bài thơ trong Khát cháy như những vết cắt sâu vào hiện thực, phơi bày những mặt trái của cuộc sống, chia sẻ với những thiệt thòi của tha nhân cần lao. Bài thơ Tôi là ống cơm lam nướng vụng là nỗi niềm chia sẻ với những kiếp người lam lũ, thua thiệt đấy nhưng vẫn cố gắng dâng hiến chút hương vị “bùi thơm” cho đời một cách thầm lặng.
Ý thức công dân và trách nhiệm xã hội của nhà thơ Nguyễn Đức Hạnh còn được gửi gắm vào những bài thơ ông viết về quê hương, đất nước; về những miền quê ông từng sống, từng đi qua, từng có những kỷ niệm ân tình, những vui buồn đắng ngọt… Tuy không phải là nơi chôn rau cắt rốn, hoặc là mảnh đất ông từng gắn bó thâm niên, nhưng với cảm quan của một nhà thơ, kết hợp với lối sử dụng thổ ngữ hết sức nhuần nhuyễn, ông đã khắc họa cảnh vật, con người và bản sắc văn hóa mỗi địa danh một cách tài tình, rất ấn tượng. Chẳng hạn ông viết về thành phố Vinh của Nghệ An: “Lịch sử lỡ tàu ở Phượng Hoàng Trung Đô/ Buồn Nguyễn Thiếp uốn sông Lam cong vút/ Đau thi nhân đùn thành Rú Quyết/ Tiếng kêu thầm trong đá âm âm/ Nhập hồn qua sông nước bàng hoàng/ Lấy thơ khắc mặt hào kiệt sông Lam/ Lấy tiếng gọi dựng giữa trời làm kiếm/ Múa nát ba ngàn cơn mưa trong ba hồi chín tiếng…” (Nhớ Vinh).

Ông có riêng một bài thơ viết về sông Lam: “Sông Lam trôi rú Quyết không trôi/ Nhìn nhau mà vỡ/ Sông khóc trong mơ ai dỗ?/ Những đàn cá đi xa chẳng muốn về/ Cỏ ăn vụng nhớ mà xanh, dập nát càng thơm, níu dấu chân ai mà đếm?/ Không người Nghệ vẫn phải lòng sông Lam/ Bóng tài hoa khỏa hồng bao con sóng/ Xứ Nghệ thẳm sâu lặng trầm trong náo động…” (Sông Lam). “Không người Nghệ vẫn phải lòng sông Lam”, lời thú nhận thiệt thà ấy được chứng minh khi trong một bài thơ viết về miền Trung, đề tặng một bạn thơ xứ Quảng, ông vẫn không thoát khỏi trường liên tưởng về Rú Quyết, dòng Lam: “Những con thuyền chở huyền tích phương Nam/ Ghé bến Thuỷ can tràng/ Uống gió Lào vừa trôi vừa khát/ Tiếng vó ngựa ngàn năm hoá thành Ví dặm/ Thành mưa phân vân đứng giữa hai đàng/ Gió hai miền thổi lại/ Tụ thành gái sông Lam…” (Phác thảo miền Trung).
- Là nhà thơ đồng thời là nhà nghiên cứu phê bình văn học, Nguyễn Đức Hạnh luôn thường trực ý thức đổi mới cách nghĩ, cách cảm và diễn đạt thi tứ. Trạng thái vô thức, mơ hồ và những ý niệm khó nắm bắt, khó gọi tên, là “môi sinh” của những câu thơ tài hoa xuất thần kiểu “trời cho”. Ai cũng biết thế, nhưng làm được thế không dễ, bởi khi nhà thơ càng cố gắng “vô thức” thì chính lúc đó họ lại càng ý thức. Đọc Khát cháy, thấy Nguyễn Đức Hạnh đã phần nào thành công khi ông chủ động buông bỏ được mọi thao tác tư duy của nhà nghiên cứu phê bình để “nhập” vào thế giới ma mị của nhà thơ thiên phú, để có được những thi tứ và thi ảnh thú vị, huyền ảo, bất ngờ: “Tiếng ve rắc vừng thơm vạn kem que/ Mùa Hạ chảy xuống ngón tay trắng muốt/ Sông Cầu thức đòi uống ban mai cùng mắt biếc…” (Ra bến Tượng ru sông Cầu); “Bóng những giọt mùa đông vẫn chảy vào mắt mẹ lúc lành lúc vỡ/ Nóng như hạt muối đang thở, muối ướp tiếng thở dài…” (Mẹ ơi con nhóm lửa rồi); “Mưa suốt đêm không ướt nổi tiếng chim/ Mổ thật khẽ vào thương nhớ…” (Đêm hạ Long); “Hồ mùa thu hát bằng ánh trăng vỡ nát/ Chỉ một hòn sỏi nghe rồi khóc…” (Nghĩ về thơ trong ngày mưa nhiều)… Đó là những câu thơ bật ra từ mạch cảm xúc tự do bản thể. Theo đó, nhà thơ không tả, không kể, mà chỉ gợi mở bằng liên tưởng tức thời. Mỗi thi ảnh vừa như vệt sáng chợt lóe lên, vừa như là tiếng kêu bản năng từ những ký ức, từ những thương tổn…
“Chặt vui buồn dựng hàng rào xanh/ Buông bỏ nở hoa lặng lẽ/ Khu vườn nhỏ có cây khế nhỏ/ Quả chín rơi ngọt cả tay cầm” (Nói với em khi tóc bạc)
“Bụng lép. Nửa đêm nhai sương mù mòn răng/ Húc đổ bờ rào nghìn tuổi/ Nhầm bầu trời là mẹ/ Ngậm vào trăng. Bú mãi tiếng khóc thầm…” (Mẹ ơi con vẫn chỉ là con nghé).
Những câu thơ như trên không chỉ ra một ý nghĩa cố định nào, mà mở ra một không gian cộng hưởng và liên tưởng đầy ám tượng, nhuốm sắc màu huyễn hoặc ma mị. Từ đó, chúng mở ra những chiều kích và tầng nấc khác nhau của cảm thụ và nhận thức; chúng kích thích người đọc cùng suy tưởng và đồng sáng tạo ý nghĩa trong quá trình khám phá tác phẩm. Để “xuất thần” được những câu thơ như thế, tác giả phải rất cao tay trong sử dụng ngôn ngữ tượng trưng và thủ pháp trừu tượng hóa với nhiều hình ảnh mang tính ý niệm, như: “Niềm vui méo, nỗi buồn tròn – hai chiếc bát/ Đựng nỗi niềm tôi mời mẹ, mời em” (Tôi là ống cơm lam nướng vụng); “Em thành giọt mưa mặn chát/ Vỡ trên lá sen sững sờ” (Đêm Hà Nội); “Lá xanh bàn tay che mặt/ Lá đỏ mắt cháy rực/ Hạt theo chim bỏ xứ mà đi” (Lang thang mùa vu lan); “Này sông này lưới này dao/ Bơi tung tăng mãi rồi vào nơi đâu?” (Ngắm bầy cá mà nghĩ)…
***
Đọc Khát cháy của Nguyễn Đức Hạnh, độc giả bắt gặp một tâm thế dồn nén, bức xúc; một trạng thái bất an nhưng vẫn ngập tràn tin yêu và hi vọng; một tâm hồn thương tổn nhưng từng trải, kiên cường; một trái tim khát khao hướng thiện và một cấu trúc thi ca mới lạ, đa chiều, đa tầng… Chính cái thế giới ngổn ngang ám tượng, giàu liên tưởng ấy đã làm nên một một giọng thơ vượt thoát khá ngoạn mục. Như chính tên của tập thơ, Khát cháy là tiếng lòng của một nhà thơ công dân dám cháy đến kiệt cùng đam mê để tận hiến. Sự đam mê khao khát đến kiệt cùng đã làm nên giá trị nội dung và nghệ thuật của thi phẩm Khát cháy!
Mai Nam Thắng


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét