Vũ Nho - Chủ trang VNNB
ẤN
TƯỢNG TỬU SẮC TRONG THƠ TRẦN HUYỀN TRÂN
Vũ Nho
Khép lại cuốn “Thi nhân Việt Nam ” nổi tiếng của mình, Hoài Thanh,
Hoài Chân đã viết những dòng thú vị :
“ Viết
đến đây tôi đã định khép cửa lại, dầu có thiên tài đến gõ cũng không mở. Thế mà
lại phải mở cửa để đón một nhà thơ nữa : Trần Huyền Trân. Trần Huyền Trân, con
người có tên lạ ấy, không phải là một thiên tài. Nhưng tôi ưa những vần thơ
hiền lành và ít nói yêu đương”.
( Thi nhân Việt Nam , nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội,
Hội nghiên cứu giảng dạy Văn Học thành phố Hồ Chí Minh, 1988, trang 342).
Rõ ràng, Trần Huyền Trân không chỉ có
cái tên lạ ( Thật ra đâu có lạ. Lạ vì là phái nam mà mang tên nữ của công chúa nhà Trần trong lịch sử chăng?). Dù không là
thiên tài, nhưng thơ của người được nhà phê bình “ưa”. Phải thấy rằng nhà phê
bình Hoài Thanh và Hoài Chân lúc đó đã xài hàng ngàn bài thơ đủ các giọng điệu
để chọn vào tuyển tập 45 thi nhân với gần 170 bài thơ, cũng đã mệt mỏi. Ấy vậy
mà phải nhượng bộ mở cửa đưa Trần Huyền
Trân vào thành người thứ 46. Và dành cho thi nhân hai trang với nhận định thẳng
thắn : “Thơ Trần Huyền Trân không xuất
sắc lắm. Nhưng sau khi đọc hoài những câu rặt anh anh em em, tôi đã tìm thấy ở
đây cái thú của người đi đổi gió” ( sách đã dẫn, trang 343).
Toàn bộ thơ ca của Trần Huyền Trân
không xuất sắc lắm. Nhưng chắc là có yếu tố xuất sắc. Tôi thì thấy tiếc rằng
Hoài Thanh, Hoài Chân đã bỏ sót một bài thơ xuất sắc của Trần Huyền Trân, một
bài thơ rượu nhưng đầy tình cảm tốt đẹp giữa hai thế hệ nhà thơ và có sự bi phẫn rất đáng trân trọng của nhà thơ trẻ. Theo tài
liệu tin cậy thì bài thơ này có tên chung là Với Tản Đà. Bài I có tên Uống rượu. Bài II có tên Nhớ nhau. Nhà phê bình chỉ trích một số
câu trong bài II vào bài viết của mình. Tôi nghĩ cần phải đọc lại và nhấn mạnh
giá trị độc đáo của bài thơ Uống rượu.
VỚI TẢN ĐÀ
I. UỐNG RƯỢU
Cụ hâm rượu nữa
đi thôi
Be này chừng sắp
cạn rồi còn đâu
Rồi lên ta uống với
nhau
Rót đau lòng ấy vào
đau lòng này
Tôi say? Thưa, trẻ
chưa đầy
Cái đau nhân thế
thì say nỗi gì?
Đường xa ư cụ?
Quản chi
Đi gần hạnh phúc là
đi xa đường
Tôi là nắng – Cụ là
sương
Tôi bừng dậy sớm-
cụ nương nắng chiều
Gió mưa tóc cụ đã
nhiều
Lòng còn gánh nặng
bao nhiêu khối tình
Huống tôi mái tóc
còn xanh
Vâng, tôi trăm thác
ngàn ghềnh còn đi
Với đời một thoáng
say mê
Còn hơn đi chán về
chê suông đời
Rót đi rót rót đi
thôi
Rót cho tôi cả mấy
mươi tuổi đầu
Nguồn đau cứ rót
cho nhau
Lời say sưa mới là
câu chân tình
Ngã Tư Sở, 1938
Trước hết cần khẳng định tình cảm của nhà thơ trẻ Trần
Huyền Trân khi đó mới 25 tuổi với nhà thơ già Tản Đà, khi đó 47 tuổi. Cái chênh
lệch tuổi tác ấy, bây giờ có thể gọi là anh, xưng em;
hoặc là bác hay chú, xưng tôi hoặc cháu
( Các nhà thơ không muốn người ta coi mình là già thể hiện trong xưng hô). Ấy
thế mà nhà thơ trẻ gọi Tản Đà là cụ với
tất cả sự thành kính, ngưỡng mộ.
Trong bài thơ này, không rõ hai người
đã uống mấy be, đã ngồi bao lâu, nhưng chắc có lẽ không phải là be thứ nhất. Nhà thơ trẻ
tửu nhập, ngôn xuất. Suốt bữa rượu chỉ một mình anh nói. Đầu tiên là giục hâm
rượu. Rồi thì bày tỏ việc rót rượu, uống
rượu là “ Rót đau lòng ấy vào đau lòng
này”. Nỗi đau lòng của hai người, hai nhà thơ khác nhau về tuổi tác ấy là
gì? Chắc không phải là nỗi đau tầm thường, nhỏ hẹp về cảnh nghèo và đời tư khốn
khó. Đó là nỗi đau của người dân nô lệ. Tản Đà từng mơ ước bồi lại “bức dư đồ
rách”, từng đau xót thực trạng của đất nước trong câu cảm khái “ Dân hai nhăm triệu ai người lớn?/ Nước bốn
nghìn năm vẫn trẻ con” ( Gửi người tri âm), từng lo lắng bất an “ Lo vì phong hóa mỗi ngày suy/ Thánh giáo
không ai kẻ hộ trì” và “ Lo vì thế
cục nát như tương” ( Hủ nho lo việc đời). Vậy nên uống rượu chỉ là cái cớ, cái cơ hội để rót
niềm đau thế sự.
Nhà thơ già chỉ lặng im nghe. Chừng sợ
người đối ẩm hiểu lầm, nhà thơ trẻ tự hỏi rồi tự trả lời:
Tôi
say?
Thưa,
trẻ chưa đầy
Cái
đau nhân thế thì say nỗi gì.
Đến
đây thì cái đau lòng ấy rõ hơn, đó là cái
đau nhân thế, nỗi đau đời người
trước thời cuộc.
Và
nhà thơ trẻ bộc bạch ý chí và khát vọng
của mình với bậc tiền bối:
Đường
xa ư cụ?
Quản
chi
Đi
gần hạnh phúc là đi xa đường.
Tản
Đà, trên một số bìa sách có hình người gánh nặng với câu thơ Hai vai gánh nặng con đường thời xa. Nhà
thơ trẻ không ngại đường xa, cũng không ngại gánh nặng. Tất nhiên là có hơi men
cũng bốc, nhưng ta hoàn toàn tin tưởng vào sự thành thật này:
Vâng, tôi trăm thác ngàn ghềnh còn đi
Với
đời một thoáng say mê
Còn
hơn đi chán về chê suông đời
Có
cái khí phách, khát vọng của Xuân Diệu trong “Giục giã” : “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối/ Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”.
Có cái bi phẫn của Thâm Tâm trong “ Tống biệt hành” : “Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ/ Chí nhớn chưa về bàn tay không”.
Đoạn thơ cuối có tiếng giục
giã thật thú vị, bốn từ “rót” hối hả, gấp gáp trong hai câu thơ:
Rót đi rót rót đi thôi
Rót
cho tôi cả mấy mươi tuổi đầu
Nhà
thơ trẻ muốn chia sẻ cả cái tuổi tác, cả những nỗi đau đời, những khối tình mà
thi sĩ thế hệ trước đang mang. Rót rượu cho nhau là rót tâm sự, rót niềm đau,
rót nguồn đau từ người này qua người khác. Và thật đẹp là cái câu kết:
Nguồn đau cứ rót cho nhau
Lời say sưa mới là câu chân tình.
Nếu
chỉ là say suông, ấy là những lời nói
bị mất kiểm soát, thêm chữ sưa vào để
giảm độ say, để chứng thực sự chân tình của người nói.
Có thể kết luận rằng đây là một trong
các bài thơ TỬU ( RƯỢU) hay nhất trong
thơ ca nước Việt. Đặc biệt, qua bài thơ đó, chúng ta hiểu tâm trạng, niềm trăn
trở của một lớp thanh niên yêu nước, bi phẫn, chưa tìm được con đường lí tưởng.
Đồng thời nó ghi dấu tình bạn cao đẹp của hai thế hệ nhà thơ.
TỬU là vậy. Người xưa thường nhắc cặp
từ TỬU SẮC. Về SẮC, tức là về phái đẹp, về tình yêu. Đúng là Trần Huyền
Trân ít nói yêu đương. Thật tiếc là tôi không có nguyên cả bài thơ của Trần
Huyền Trân. Nhưng không rõ từ nguồn nào, tôi chép bốn câu này của tác giả vào sổ tay:
Xa nhau, gió ít, lạnh nhiều
Lửa
khuya tàn chậm mưa chiều đổ nhanh
Bóng
đơn đi giữa Kinh thành
Nhìn
duyên thiên hạ, nghe tình người ta
Bây
giờ xem lại thì hai câu trên được trích trong “Thi nhân Việt Nam ”. Còn hai câu dưới không rõ từ
đâu. Nhưng tôi rất cảm khái với hai câu dưới của thi nhân. Nó có vẻ cô đơn, xa
lạ của người ở cố đô mà nhớ cố đô, ở
kinh thành mà xa lạ với kinh thành. Vì ở
đó, thi nhân chỉ thấy duyên của thiên hạ, chỉ nghe tình của người ta. Khác
với nỗi niềm của nhà thơ Nguyễn Bính từ chân quê lên dan díu với kinh thành.
Và tôi, trong những năm tháng vạ vật ở kinh thành để
đi thi nghiên cứu sinh, rồi khi đã đỗ tiến sĩ, chuyển về Hà Nội lại vạ vật ở
kinh thành vì chưa xin cho vợ con được
nhập khẩu, tôi thường ngâm nga và thấm thía cái cảnh mà thi nhân đã như viết cả
cho mình.
Bóng đơn đi
giữa Kinh thành
Nhìn duyên
thiên hạ, nghe tình người ta
Xin cảm tạ nhà thơ Trần Huyền Trân, dù viết không
nhiều thơ, đã để lại cho mọi người những vần thơ độc đáo về TỬU SẮC!
Kinh thành Hà Nội, 19/8/2013
Trong lời "Nhỏ to" cụ Hoài Thanh nói đã đọc một vạn bài thơ, thế mà vẫn bỏ sót bài Với Tản Đà. Hai câu rất hay:
Trả lờiXóaBóng đơn đi giữa Kinh thành
Nhìn duyên thiên hạ, nghe tình người ta
Cũng không được cụ nhắc tới.
Giá hồi đó mà cụ sưu tầm được mấy bài bác Vũ Nho giới thiệu thì TT.Kh phải đứng sau Cụ Trần Huyền Trân rồi hihihi
Ở Hội thảo có nhiều ý kiến cho rằng hai bác Hoài Thanh Hoài Chân đã mệt và không đọc hết Trần Huyền Trân. Mọi người đánh giá cao việc "mở cửa" dù Thiên tài gõ thì cũng không mở. Nhưng mở cửa mà chỉ coi thơ của thi nhân như phương tiện "đổi gió" thì cũng có thể coi là khiếm khuyết. Tháng 11 năm 1941 là ngày tháng đề dưới bài viết về Trần Huyền Trân. Nhưng hai câu thơ sau viết năm 1940:
XóaTôi nghe xa lắm làn mây trắng
Rời bóng kinh thành lững thững đi
cũng không được trích tuyển. Cho nên cũng không nên thần thánh hóa, dù là nhà phê bình tài năng.
Cám ơn bác Bu đã ghé và chia sẻ!