Ngày mai, 14 tháng 9, tại 19 Hàng Buồm, Hội nhà văn Hà Nội tổ chức hội thảo kỉ niệm 100 năm ngày sinh của nhà thơ Trần Huyền Trân với tiêu đề " VẨY BÚT LÀM MƯA GIÓ" ( một phần câu thơ của tác giả). VuNho Ninh Binh xin giới thiệu một trong các bản tham luận của nhà thơ Bùi Văn Kha.
ĐỌC THƠ TRẦN HUYỀN TRÂN THẤY
LÒNG TA BÌNH TĨNH LẠI
Bùi Văn Kha
Có lẽ người yêu Thơ Mới không ai không bị
bài “Uống rượu với Tản Đà” làm năm 1938 ám ảnh:
Rồi lên ta uống với nhau
Rót đau lòng ấy vào đau lòng
này.
…
Rót đi, rót rót đi thôi
Rót cho tôi cả mấy mươi tuổi
đầu
Nguồn đau cứ rót cho nhau
Lời say sưa mới là câu chân
tình.
Thêm hơn một chút là bài Khi đã về chiều:
Hồn thơ về lánh bụi hồng
Quyển vàng, tóc bạc nằm chung
một lều
Có đàn con trẻ nheo nheo
Có dăm món nợ eo sèo bên tai
…
Nghiên son lớp lớp bụi mờ
Mọt ôn tờ lại từng tờ cổ thi.
(cũng năm 1938).
Hay bài Viếng nhau:
Hôm nao vút cánh chim hồng
Mình không thẹn bóng, bóng
không thẹn mình
Rày sao eo óc gia đình
Men cay càng gửi bất bình
càng cay. (bài này làm năm 1939 khi Tản Đà mất).
Tôi dừng một chút ở 3 bài trên, tự hỏi:
Bút pháp của Trần Huyền Trân là gì? thấy Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam mở
cửa đón chàng thanh niên hai mươi mấy tuổi mà trước đó đã hẹn lòng mình rằng 39
nhà thơ là đã đủ rồi, dù ai gõ cửa cũng mặc, cho dù là một thiên tài, chỉ giới
thiệu đôi lời về cái mới của hình ảnh thơ, cái giọng điệu nhẹ nhàng da diết của
cảm xúc thơ mà không nói thêm gì.
Rồi sau này, do ảnh hưởng của quan kiến
mới mà Hoài Thanh, nhà phê bình văn học ghép thêm nhà lý luận văn học chủ chốt,
nhà phát ngôn văn học nhà trường chính yếu tóm tất cả Thơ Mới vào dòng Văn học
lãng mạn để thoát li hạ thấp nó, mà phân biệt nâng cao cho dòng Văn học hiện
thực phê phán và dòng Văn học cách mạng. Có biện minh tất yếu lịch sử thì đấy
cũng chỉ là dùng thế giới quan chính trị để đánh giá tư tưởng nghệ thuật chứ
không từ văn bản tác phẩm để chỉ ra bút
pháp tác giả.
Đọc Trần Huyền Trân tôi chỉ thấy một bút
pháp trữ tình truyền lại cái hiện thực, cả những sáng tác trong giai đoạn Thơ
Mới cũng như trong và sau Cách mạng tháng Tám. Nếu như giai đoạn 1930 – 1945 là
thơ hiện thực trữ tình, thì sau này, từ 1946 trở đi, là thơ hiện thực cách mạng
trữ tình. Dù là gì thì thơ Trần Huyền Trân vẫn lấy sự chân thực về mỹ cảm, về
hiện thực cuộc đời, về khung cảnh ngoại diên quê hương con người làm chất liệu
chính của thơ ca.
Viết về Tản Đà lấy cái tiếp nối nguồn đau
của thi nhân muôn thuở nhưng buồn mà không hạ đi cái cốt cách của nhà nho tài
tử thì đấy là mỹ cảm chân thực của niềm kính trọng. Nó khác hẳn với Gửi Trương
Tửu của Nguyễn Vĩ dù đây cũng là một tuyệt tác văn chương. Nhắc đến “có đàn con
trẻ nheo nheo/ Có dăm món nợ eo sèo bên tai” tưởng có cái kết của Tú Xương
nhưng người thơ trẻ lại chốt một câu buồn như cái buồn của Ông đồ vũ Đình Liên
“Nghiên son lớp lớp bụi mờ/ Mọt ôn tờ lại từng tờ cổ thi” – cũng là để vận đến
mình. Mà câu chữ toàn là Quốc ngữ. (Tôi nói điều này vì tận đến những năm 1936
– 1938, nhiều nhà Nho khi biên khảo,làm sách vẫn dùng khá nhiều phương ngữ,từ
Việt âm cổ,…Tản Đà thì khác, khi ý đến mà chưa có từ mới thì người mượn cái áo
để mặc dù hồn cốt của mình vẫn chẳng đổi thay. Xem Thề non nước hay Hầu trời,
Cảm thu tiễn thu,…).
Giờ tôi lại theo mạch thời gian để tiếp
mạch thơ với Mưa đêm lều vó:
Mưa lũa ao bèo mưa trắng đêm
Cây bờ ngơ ngác nước đang lên
Lều tôi kiến đã bò lên mái
Bà lão chài lo chửa có
thuyền.
Vó nghèo được nước đã lê thê
Đàn cá giang hồ nhảy nhót đi
Cả cụm bèo xanh nằm cạn mãi
Cũng như cất cánh gọi không
về.
Tôi ở lều gianh Cống Trắng
này
Chạnh lòng cá nhảy với chim
bay
Đêm sầu kẽo kẹt ngư bà thức
Giăng phải hồn tôi một lưới
đầy.
Thực là đầy một hiện thực, nghèo, tù túng,
về tất cả, đến cả tâm hồn cũng thế. Mãi 4 năm sau mới có Tống biệt hành của Thâm
Tâm.
Nhưng trước Thâm Tâm 3 năm , trong thân li
khách đã là một Trần Huyền Trân tâm trạng cũng theo thể Hành:
Thôi thế anh về - Tôi đi đây
Cây nào có gió không thèm
lay?
Chim nào có gió không thèm
bay?
Lòng nào có máu không thèm
say? – Lưu biệt, làm năm 1939.
Người sau bảo đấy là câu thơ lãng mạn, thậm chí có lẽ hơi “bốc giời”
(chữ nương theo Thúc Sinh, có bản là bốc rời, tôi thích bốc giời theo Kiều Lẩy
giọng của bà tôi xưa).Thực ra câu thơ trữ tình hiểu cách nào cũng thuận, nhưng
tách bạch nó cũng giống như nói Thận tàng Tinh, Tâm tàng Thần, Phế tàng Khí. Ba
phủ Thận Tim Phổi lưu ba hồn tinh thần khí hợp thành linh hồn (hay tinh thần,
tâm hồn) thì chất liệu vẫn mây gió đấy mà câu thơ thoát tục thăng hoa. Ngay cả
bài chỉ nói về lứa đôi mà sao nghe chua xót:
Biết yêu thì khổ có thừa
Hình dung một thoáng tương tư
chín chiều
Xa nhau gió ít lạnh nhiều
Lửa khuya tàn chậm mưa chiều
đổ nhanh
Bóng đơn đi giữa Kinh thành
Nhìn duyên thiên hạ nghe tình
người ta
Thì ai bảo là thoát ly hiện thực nào? Nó
là cái tôi cá nhân trong đời mưa gió lấy cái tương phản để tự mình cảm nhận đậm
chất thị dân có học. Cái tài ở đây là chỉ có mấy câu mà vượt khuôn khổ Đường
thi về ảnh, tự, nhịp, điệu ở chỗ nói cảnh mà cũng nói tình, nói hai mà như nói
một, nói khẩu ý mà cũng nói thân. Cái này lại phải vịn vào “cảnh nào cảnh chẳng
đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Chắc rằng khi đến với Tản Đà, Trần
Huyền Trân đã nặng một hành trang Đoạn Trường Tân Thanh rồi.
Mà lãng mạn như thế là hay lắm chứ! Nó lớn
hơn cái quy kết trước đây lấy văn nghệ phục tùng chính trị - đinh ốc và bánh xe
của môn xã hội học dung tục. Câu thơ: “Tôi nghe xa lắm làn mây trắng/ Rời bóng
Kinh thành lững thững đi” – Đôi mùa, làm năm 1940 mà đến tận khoảng năm 70
Quang Dũng mới hạ được câu “Mây ở đầu ô mây lang thang/ Ôi chật làm sao góc phố
phường”. Nhưng câu thơ năm 1940 nó toàn cảnh hơn, câu thơ sau này chỉ là thân
phận , hoàn cảnh.
Tại vì:
Xót mấy người thơ mài ngọn
thép
Vẫn cầy luống tóc, vẫn mơ
hương
Vẫn trồng hương sắc, vun danh
tiết
Mà mấy loài hoa vẫn hải
đường. (Gửi Thâm Tâm – năm 1943).
Năm 1942, trong “Thơ lên đường đề tựa thơ
Trần Huyền Trân”, Thâm Tâm viết:
Ngâm thôi
Quăng bút cười ha hả
Đây một loài hoa khác hải
đường
Thì xa hơn là Kiều “Hải đường mơn mởn cành
xuân”, lại cũng là một sự bất lực của hiện trạng:
Để ngán cho đời ngươi với ta
Lầm than vàng đá đất trăng
hoa
Bút dầm biển mực chưa thành
sóng
Đã phải câm lòng khúc tráng
ca.
Cho là giai đoạn này Trần Huyền Trân đã
sang một tâm thức mới: Trữ tình cách mạng, mà sau đây tôi xin dẫn, thì cái
không chịu nổi của hiện thực giai đoạn 41 – 45 đưa vào Thơ Mới phỏng có mấy
người. Không đồng hành với một cái gì lớn lao hơn mình thì chỉ có bế tắc và suy
đồi như điều cũng đã xảy ra với nhiều nhà thơ ở thời điểm này. Hoặc vẫn quanh
quẩn “nhặt lấy cho tôi… lá vàng/ hoa tàn/ đem về chắn lối nẻo xuân sang”, “Đưa
tay lên thoa những hàng kính vỡ”, “gỡ tay vướng để theo lời gió nước”, …lãng
mạn đích thực đấy, nhưng thời đã khác rồi.
Chiều rồi chim nhớ bóng tre
Lòng không quê quán…biết về
nơi nao
…
Đêm về trời đợi trăng trong
Đêm về ta đợi đất hồng lửa
lên – Giữa đường – 1942.
Hay:
Đêm nằm buồn nghiêng gối
Thầm nói: Xót nhau không –
Không đề, 1941.
Đấy là lúc nhà thơ đã chọn con đường tranh
đấu cách mạng, nhưng không phải ngẫu nhiên, không phải xu thế. Cái ấy chỉ một
phần. Phần lớn là lòng chia sẻ, lòng bất bình đã có sẵn như trong câu “Men cay
càng gửi bất bình càng cay”. Điều này được đặc biệt nhấn mạnh trong “Cái thai
hoang làm năm 1942” mà chất hiện thực gắn liền hình tượng bà mẹ và đứa con chất
nặng trên vai mình một tồn tại xã hội:
Con sẽ ra đời! Con của ai?
Ngoài này đang lắm bước chông
gai
Gì nuôi con đói lòng dao cắt?
Gì đắp che cơn rét buốt giời?
Thuế sống rồi con gánh nặng
nề
Rồi con viết mướn hay may
thuê?
Về đâu nương náu? Đi đâu
thoát?
Hay sớm đi hoang? Tối ngủ hè!
Con sẽ dùng chi đôi cánh tay?
Dùng chi cho thỏa chí lòng
say?
Dùng chi cho thỏa cánh hồn
bay?
Dùng chi? Dùng chi thời loạn
này?
…
Ta đã đi qua thế giới mù
Đất trời tao loạn tựa hoang
vu
Muôn hồn bay bổng – không còn
cánh
Cả chuyện yêu đương…cũng hóa
thù.
Lại nghĩ đến câu thơ Trần Dần năm 1989
“Tôi khóc cho những người bay không có chân trời/ và khóc cho những chân trời
không có người bay”. Dù là hay nhưng vẫn là câu thơ cô kết, giới hạn, thiếu một
hào khí chất giọng lớn, mà chỉ có cái đớn đau của một thân phận lớn.
Ở bài Lòng chiến sĩ (kính dâng Phạm Ngũ
Lão):
Thuở ấy ra quân lớp lớp dài
Mẹ già phẩy áo hẹn tương lai
Lòng con nặng giục mầm hoa nở
Gió bốn phương lùa lộng chí
trai
…
Mặt trận đêm nay mừng chiến
thắng
Rượu nồng sôi máu đỏ - Ô hay!
Men buồn nhẹ bấc trong lòng
vắng
Thoáng bóng ai trong cốc rượu
đầy.
…
Bà mẹ già kia cũng thế thôi
Lời mong nhớ lắm đã câm lời
Lòng mong nhớ lắm tơ lòng đứt
Mắt lóa chờ con khép chặt
rồi.
…
Chao ôi binh lửa! Ôi binh
lửa!
Đây một hồn thiêng chết nữa
đây
Chao ôi Binh lửa! Ôi binh
Lửa!
Ai dẹp lòng ta trận giặc này.
– làm năm 1938. Ở đây là sự phân thân kiểu Phân tâm học, điều mà vào thời ấy có
ảnh hưởng vào văn học nước ta, nhưng ở văn xuôi nhiều hơn. Thực ra tiểu thuyết
bây giờ dung cũng nhiều. Nhưng mượn một hình tượng danh tướng để nói hiện thực
này thì Trần Huyền Trân nối được Đặng Trần Côn rồi.
Đến bài Những người chưa chết làm năm 1944
lúc bắt đầu trận đói khủng khiếp năm Ất Dậu ở 9 tỉnh đồng bằng Bắc bộ:
Ruộng đồng trơ trụi cỏ khô
Mưa xuân rữa nốt phân gio
thành mùn
Con trâu, con chó không còn
Khắp vùng dân đói dần mòn kéo
đi
Vai mang đời sống lặc lè
Tráng phu năm trước, tử thi
buổi này
…
Đàn ông sót lại bao tên
Chôn người để đợi người đem chôn
mình
Ta thấy đấy là lời người Việt ghi lại cái
tang thương trên đất Việt. Điều này trong Thi nhân Việt Nam Hoài Thanh khi nhắc
đến những nhà thơ thuần Việt ít chịu ảnh hưởng Pháp có Trần Huyền Trân. Và khi
đã đến tột cùng đau khổ thì con người tìm cái sống ở nơi tưởng chết. Điều ấy có
nhiều trong tác giả Rau Tần và cũng chính là điều làm ta bình tĩnh. 2 năm sau,
khi Pháp đánh chiếm Hải Phòng, rồi ngày Toàn quốc kháng chiến, Trần Huyền Trân
có Hải Phòng 19 – 11- 1946, và Tạm biệt em Nhà hát Thủ đô ơi, bộc tả cái cảm
xúc bồng bột hăng say công nông binh xuất thân từ mọi lớp người trong xã hội mà
kiên quyết cách mạng. Sự nhập cuộc ấy là đóng góp tiếng nói lúc bắt đầu thời kỳ
mới của nhà thơ theo tiếng gọi non sông.
Tôi xin kết bài viết này ở “Vô tận nguồn
hương”:
Xưa trùm chăn lều cỏ
Đời loạn nào có yên
Tóc bồng mây song cửa
Lòng hiu hắt đĩa đèn
…
Ngẫm người ta hoa đất
Tưới nước mắt yêu thương
Thơ mang tình đất nước
Vẫn vô tận nguồn hương!
Để viết một dòng cuối rằng: Thơ Trần Huyền
Trân đích thực là thơ hiện thực trữ tình của văn học Việt Nam . Đọc ông
thấy lòng ta bình tĩnh lại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét