MỘT VÀI SUY NGHĨ VỀ SÁCH GIÁO
KHOA NGỮ VĂN SAU 2015
PGS.TS Vũ
Nho, Viện KHGD Việt Nam
Nhớ một kỉ niệm khi tôi mới ở Nga về đến liên hệ công tác với
nhà xuất bản Giáo Dục năm 1985. Một người bạn cùng trường đại học Sư phạm Việt Bắc với tôi sau khi làm Tiến sĩ ở Đức,
được phân công làm phó trưởng Ban đối ngoại của nhà xuất bản và phụ trách các
vấn đề lí luận về sách giáo khoa. Anh bảo tôi : “ Sách thì chúng ta đã
viết, đã in mãi rồi. Nhưng lí luận về sách thì hình như chỉ được tham khảo của
nước ngoài rồi làm trực tiếp, gia giảm cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của
Việt Nam. Từ
nay, công việc nghiên cứu
lí luận mới thực sự bắt đầu”.
Cho đến bây giờ, sự giao lưu rộng rãi Đông Tây đã cho chúng ta rất
nhiều thông tin mới. Lí luận về sách giáo khoa, chúng ta đó cú nghiên cứu và chắc chắn sẽ không bê thẳng của
nước ngoài vào. Lần đổi mới chương trình và sách giáo khoa sau 2015 này là một
cơ hội để chúng ta thống nhất một số vấn đề cơ bản của sách giáo khoa cho học
sinh Việt Nam, do người Việt Nam làm ra sau nhiều năm tìm hiểu về lí thuyết và
nhất là trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm biên
soạn trực tiếp.
Môn Ngữ văn, do đặc thù của nó và do ảnh hưởng mạnh mẽ của
truyền thống, sách chúng ta có khác với
sách của một số nước ngoài. Một phần Ngữ
( tiếng Việt), một phần Văn, Tập làm văn là phần có vẻ độc lập, nhưng kì thực
nó là phần thực hành tạo lập ngôn bản ( nói) và văn bản( viết) của phần tiếng
Việt là chính. Bây giờ, một quan niệm gần như đã thống nhất. Đối với
tiểu học thì chủ yếu là học Tiếng, đối với THCS thì Tiếng và Văn tương đương, đối
với THPT thì nghiêng về Văn, những kĩ năng về Tiếng được ôn lại và củng cố,
nâng cao là chính. Điều này là một cơ sở cực kì quan trọng để xây dựng cấu
trúc, xác định nội dung, và cả phương pháp đối với sách giáo khoa Ngữ văn.
Sách giáo khoa ngữ văn trước đây chỉ chú trọng cung cấp kiến
thức cho học trò. Nó là sách “ Trích giảng
văn học”. Học sinh về cơ bản chỉ có thể tiếp cận với tác phẩm trong sách giáo khoa. Nó là nguồn duy nhất cung cấp tác phẩm và tri thức về tác phẩm. Ngày nay, học sinh phát huy vai trò chủ động, sáng tạo
thì việc cung cấp kiến thức thuần tuý là không đủ. Mặt khác, học sinh bây giờ
có rất nhiều nguồn cung cấp tri thức khác nhau. Bởi vậy để mang đậm tính chất
nhà trường, ngoài chức năng cung cấp tri thức,
sách giáo khoa còn là nơi cung cấp phương tiện, phương pháp học. Chính vì thế mà hệ
thống câu hỏi gợi ý để học sinh tự học, tự chiếm lĩnh tác phẩm trở thành một phần
quan trọng của sách. Đây chính là phần đòi hỏi đầu tư nhiều công sức nhất.
Thời nào cũng vậy, việc xác định lượng kiến thức cơ bản nhất
để đưa vào sách luôn luôn là một vấn đề nan giải đối với các nhà sư phạm. Một
thời, khi nghiên cứu tiếng Việt còn
nghèo nàn về thành tựu, sách giáo khoa chủ yếu là để học Văn, như tên gọi cũ của
môn học. Nhưng khi thành tựu nghiên cứu đạt được nhiều, thì nội dung sách giáo khoa về
tiếng Việt lại có phần giống như giáo trình đại học thu nhỏ. Điều đó vừa không
phù hợp về tâm lí, sinh lí, vừa gây ra sự nặng nề và lãng phí không cần thiết.
Cho đến bây giờ, học sinh các cấp cần học những gì là cơ bản nhất, tối thiểu nhất
của từ vựng, ngữ pháp, ngữ pháp văn bản... vẫn chưa được xác định một cách thật
cụ thể. Bởi vậy vẫn có sự trùng lặp ở các cấp học, bậc học.
Với phân môn Văn, tình hình cũng thế. Vẫn là bấy nhiêu tác giả, tác phẩm.
Khi chưa thay sách thì học ông này, tác phẩm này. Khi thay sách vẫn là ông ấy,
thay bằng tác phẩm khác. Nhưng tại sao lại thay tác phẩm này bằng tác phẩm khác
thì câu trả lời có nhiều khi chưa thuyết phục. Không ít trường hợp tác phẩm cũ
bị thay đi lại là tác phẩm tiêu biểu nhất
về nhiều phương diện. Trong trường hợp ấy, theo câu nói quen thuộc của chúng ta
là cải mà không tiến, phú quý giật lùi.
Xác
định lượng kiến thức tiêu biểu, tối thiểu, các kĩ năng cần hình thành và củng cố, phát triển
cho mỗi lớp học, cấp học vẫn là một thách thức lâu dài cho chúng ta.
Tính chất tối thiểu, phổ quát, thiết dụng của kiến thức
được cung cấp trong sách giáo khoa, từ đó tạo vốn cho học sinh để các em tiếp tục
con đường nâng cao học vấn suốt đời là điều không thể không cân nhắc mỗi khi
xây dựng một chương trình và sách giáo khoa mới.
Tất nhiên, sách giáo khoa không thể là
nơi thí điểm đưa vào những vấn đề còn đang tranh cãi. Những gì đã ổn định một
cách tương đối, được đa số thừa nhận sẽ được đưa vào sách. Những gì còn tranh
cãi, chưa ngã ngũ thì cứ để tranh luận thảo luận. Vấn đề đặt ra là có cần cho giáo viên và học sinh biết đến hay
không? biết đến đâu là vừa? Để nhà trường không quay lưng lại cuộc sống nhất
thiết là phải giới thiệu, chí ít là với các giáo viên biết về điều đó.
Dẫu sao, sự ổn định một cách tương đối
sẽ góp phần làm cho giáo viên yên tâm để thâm canh trên sách giáo khoa. Bới vậy những phần cứng,
những điều đã được thử thách, nếu không có lí do xác đáng, nhất thiết phải được
giữ lại, dù cho chương trình và cách biên soạn có thể thay đổi.
Trong những lần cải cách chương trình và sách giáo khoa trước đây, đối với tiếng Việt,
chúng ta đã chú ý tới bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Nhưng lần này ngoài bốn
kĩ năng trên, kĩ năng thứ năm là kĩ năng sáng tạo, tổng hợp bốn kĩ năng kia sẽ
phải là một kĩ năng được đặc biệt nhấn mạnh, nhất là trong các bài tập thực
hành.
Thời đại hiện nay là thời đại của
intơnét, thời đại mà học sinh có thể vào mạng để tìm các thông tin, tri thức.
Vì vậy sách giáo khoa cũng cần phải có những thay đổi. Không nhất thiết mọi thứ
đều phải đưa vào sách khiến cho nội dung rậm rạp, hình thức cồng kềnh. Sách có
thể chỉ dẫn nguồn thông tin, học sinh sẽ truy cập để lấy xuống. Một số các câu
hỏi, bài tập cũng có thể cung cấp qua mạng. Tôi được biết Bộ Giáo dục và Đào tạo
đó có chủ trương xây dựng ngân hàng câu hỏi. Thiết nghĩ, một số câu hỏi sẽ được
chỉ dẫn để học sinh và giáo viên lấy từ ngân hàng câu hỏi đó. Một số văn bản đọc
thêm cũng không cần đưa vào sách, mà đưa lên trang của cơ quan quản lí và chỉ đạo.
Giáo viên và học sinh sẽ cập nhật khi học tập.
Điều
bức xúc thường gặp là người ta vẫn
kêu sách giáo khoa Ngữ văn lạc hậu so với đời sống văn học, không bám sát thời
sự văn học. Đây là một điều thực tế. Không thể thay đổi chương trình và sách hàng
năm. Tuy vậy, vẫn có một cách khắc phục mà trước đây đã làm rất tốt. Đó
là trong chương trình nhất thiết phải có thời lượng thích hợp cho Thời sự Văn học.
Mỗi năm, phần này sẽ được cơ quan có thẩm
quyền biên soạn Phụ lục để bổ
sung. Có thể là một hiện tượng văn học, có thể là giới thiệu tác phẩm được giải
thưởng trong nước, có thể là giới thiệu tác giả văn học nước ngoài được giải
Nôben.
Cuối cùng, phải có một đội ngũ chuyên
gia được đào tạo bài bản, nắm vững lí luận, có kinh nghiệm thực tiễn làm sách
giáo khoa. Chỉ có như vậy sách giáo khoa
cho người Việt Nam, trong điều kiện của Việt Nam mới có thể đạt được chất lượng,
đáp ứng nhu cầu phát triển và hội nhập của đất nước.
Tháng
8 năm 2013
V.Nh.
Bài đăng trên Tạp chí Giáo dục số 320 kì 2 tháng 10 năm 2013. Đây là bản đầy đủ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét