VĨNH BIỆT GIÁO SƯ, NHÀ GIÁO NHÂN DÂN PHAN TRỌNG LUẬN!
Giáo sư, nhà giáo nhân dân Phan Trọng Luận đã ra đi ở tuổi 87. Xin chân thành chia buồn với gia đình. Cầu chúc cho anh linh của giáo sư siêu thoát miền cực lạc.
VU NHO NINH BINH giới thiệu một bài viết của Giáo sư như một nén nhang tưởng nhớ.
Một khoảng trời yên tĩnh
60 năm Khoa Văn trường Đai học sư phạm
Hà Nội
GS - NGND Phan Trọng Luận
Theo chiến lựơc
đào tạo của Trung ương , ngay trong những
năm kháng chiến chống Pháp còn ác liệt, trường Đự bị đại học tiền thân của trường
Sư phạm cao cấp nay là Đại học sư pham Hà Nội , đã được thành lập ở Liên khu IV .
Hội đồng giáo sư là những tên tuối sáng
danh của nuớc nhà gồm Đặng Thai Mai, Trần Văn Giàu, Cao Xuân Huy, Đào Duy Anh, Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu, Nguyễn Lương Ngọc và các nhà chính
trị có tên tuổi Đặng Xuân Thiều, Nguyễn Danh Hoàn …Sinh viên được tuyển chọn từ
nhiều nguồn. Có anh đã là huỵện uỷ viên, là giáo viên, có anh từ vùng địch hậu
về. Một số từ khu V, từ Bình Trị Thiên. Số khá đông trẻ trung là học sinh đã
tốt nghiệp chuyên khoa hay phổ thông 9 năm ( Tương đương lớp 12 bây giờ). Lớp
học là các đình làng. Chỉ học về đêm. Bàn
ghế không có. Mỗi ngưòi tự túc một bàn xếp nhỏ kê duới đất. Ánh sáng chỉ là những ngọn đèn dầu cá nhân tự tạo bằng
các ống penixilin. Ở nhờ nhà dân. Tắm rửa ở ao hồ . Bữa cơm hàng ngày chỉ có
rau luộc. Nước chấm là nước luộc rau pha
tí muối . Giáo trình không có. Sách tham khảo cũng không. Chỉ học theo bài giảng
của các giáo sư. Còn nhớ như in một đêm
gs Đào Duy Anh giảng về lịch sử Việt Nam . Thầy không dùng đèn, nhường cho sinh viên. Thầy ngồi nói suốt 4 tiếng đồng
hồ làm sống dậy bao nhiêu con số, bao
nhiêu sự kiện trong suốt mấy thế kỉ. Thầy Giàu đạp xe từ Thanh Hoá vào. Thầy
giảng liên tục có khi cả tuần say sưa cuốn hút lớp trẻ chúng tôi vào thế giới triết
học tưởng đâu là hàn lâm xa cách nhưng vô cùng thiết thực sinh động. Thầy Tửu hùng biện khúc chiết, là cuốn từ điển sống về văn học Việt Nam . Thầy
Tường nguời Việt Nam
đầu tiên đoạt hai bằng tiến sĩ luật khoa
và văn chuơng , ăn mặc bao giờ cũng lịch sự theo phong cách phương Tây. Kiến thức văn hoá
giáo dục Hi - La và Châu Âu ở thầy thật
mênh mông. Thầy Cao Xuân Huy sâu sắc, trầm tĩnh, ít nói. Những câu hỏi cuả thầy hình như luôn quá tầm lớp
trẻ chúng tôi hồi bấy giờ …. Từ cái nôi đào tạo đặc biệt thiếu thốn nhưng bù lại
là cơ may lịch sử được thụ giáo các bậc sư
biểu sáng danh như thế, hầu hết chúng tôi ra truờng mỗi nguời một phương, có vài người chuyển sang ngành nghề khác nhưng tất cả đã không phụ lòng các thầy. Hầu
hết các thầy nay đã về cõi tiên. Lớp sinh viên đầu tiên chúng tôi năm ấy nhiều
nguời nay cũng đã ra đi ... Số còn sống
vẫn làm việc tuy đã vào tuổi “cổ lai hi”. Tất cả đều xứng đáng là lớp sinh viên
sư phạm đầu tiên của nuớc nhà. Nhiều anh chị đã góp phần sáng danh Khoa văn Đại
học sư phạm Hà Nội. Trần Đình Hượu một học giả có tên tuổi. Nguyễn Đức Đàn nhà
quản lí và nhà nghiên cứu có uy tín, Trần
Thanh Đạm giáo sư nhà giáo nhân dân nguyên hiệu truởng Đại học sư phạm t/p Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn Hoàn nguyên viện
phó Viện văn học , Trọng Bằng GS NSND nguyên viện truởng Viện âm nhạc VN vẫn tự
hào là sinh viên sư phạm khoá đầu tiên, GS Đặng Thanh Lê là một nữ trí thức tiêu
biểu , chuyên gia Văn học trung đại, chủ
nhiệm bộ môn nhiều năm, từng tham gia Hội đồng nhân dân thủ đô, Nguyến Xuân
Nam gs lí luận văn học sớm có bài viết từ năm 60 của thế kỉ truớc …
Năm 1953 ra trường các giáo viên trẻ đuợc
phân công chủ yếu về cảc truờng cấp 3 : Phan Đình Phùng (Hà Tĩnh), Huỳnh Thúc Kháng (Nghệ
An), Lê Hồng phong (Nam
Định), Hàn Thuyên (Bắc Ninh), Lương Ngọc Quyến (Thái Nguyên), Hùng Vuơng (Phú Thọ)
.. Có nguời vào vùng địch hậu, có nguời lên tận Sơn La, Yên Bái …Riêng nhóm chúng
tôi được cử sang Khu Học xá Trung uơng gồm có Trần Thanh Đạm, Phan Sĩ Tấn , Nguyễn Văn Hoàn, Đặng Thanh Lê ( Lê - Hoàn sau ở lại Việt Bắc)
Nguyễn Mai (đã mất ) và tôi. Chúng tôi cuốc bộ hơn một tháng trời lên Việt Bắc
nhận quyết định. Mỗi nguời một bao tượng
gạo và một ống tre đựng thit mặn làm lương
thực đi đuờng . Ngày đi đến đâu tiện thì
vào nhà đồng bào nấu nhờ cơm ăn rồi lại lên đường. Tối đến nghỉ ở trạm giao liên nếu không thì vào ngủ nhờ nhà dân. Ròng rã hơn một tháng trời mới đến An toàn khu. Lần đầu tiên đến Bộ giáo dục. Đích thân Bộ truởng ( bấy giờ là gs Nguyên Văn Huyên ) tiếp anh chị
em chúng tôi. Tôi còn nhớ câu nói của Bộ
truởng khi bắt tay :” Các đồng chí là những
giáo viên cấp 3 đầu tiên của nuớc Việt nam dân chủ cộng hoà “ . 20 tuổi đời được vinh danh như thế thật sung
suớng tự hào biết bao nhiêu. Đây là một
bước ngoặt đánh dấu sự trưởng thành đầu tiên trong cuộc đời từ một sinh viên hồn
nhiên tươi trẻ có phần ngây thơ nữa sang một công chức, một cán bộ, một thầy giáo
của chế độ cách mạng. Tôi cảm thấy trong mình đã có cái gì đó đổi khác, rất
thiêng liêng : mình đang bước vào một cuộc đời khác hẳn . Sau cuộc tiếp
kiến, Bộ truởng hỏi chúng tôi đi đường vất vả có khó khăn gì không. Anh chị
em khẽ nhắc tôi thưa với Bộ truởng là anh chị em đi đường hết sạch tiền. Tức khắc
Bộ truởng quay sang bảo đồng chí cán bộ cùng dự :” Cấp cho mỗi đồng chí 20 vạn
( Tiền tài chính hồi bấy giờ ) . Thế là lần đầu tiên, chúng tôi chính thức được lĩnh tiền không phải của bố mẹ
mà là của Nhà nuớc, của Chính phủ . Cầm
số tiền tự thấy mình đã lớn lên và cũng cảm nhận cài tình ấm áp của cuộc đời đang
trao cho mình mà ông Bộ truởng là ngừời đại diện. Bộ truởng hồi bấy giờ giản dị và gần gũi lắm. Giáo viên cấp 3 cả nước chưa có bao nhiêu còn ít hơn cả giáo sư ngày nay nhiều
.. Đó là những ấn tuợng vui, danh giá và có
thể nói là sang trọng của những ngày đầu buớc vào nghề.
Sau đó là bữa cơm cũng đặc biệt trong đời
..Bữa cơm đầu tiên ở chiến khu. Thức ăn là măng luộc chấm với muôi vừng. Bát ăn
cơm là khúc bương. Lần đầu tiên trong đời mới hiểu thế nào là kham khổ của đời
cán bộ kháng chiến. Có lẽ đó cũng là một tín hiệu cho bọn trẻ chúng tôi mới bước
chân vào nghề rằng con đuờng truớc mắt sẽ phải trải qua nhiều gian khổ. Cảm xúc
vinh quang và hãnh diện vừa chợt đến thì
kèm theo là linh cảm về con đuờng gian truân đang chờ đợi chúng tôi. Sau non 60 năm dấn thân
vào con đuờng nghề nghiệp, tôi ngày càng thấm thía sao mà những cảm xúc và những
ấn tuợng ban đầu từ khi mới buớc chân vào nghề lại linh nghiệm đến thế. Vinh quang đẹp đẽ về tinh thần nhưng gian khổ, đạm bạc gần trọn một đời.
Về dạy ở đại học Sư phạm Hà Nội thời chống Mĩ , tôi còn nhớ những cực nhọc thiếu
thốn cả miếng ăn hàng ngày. Bữa ăn chỉ có nắm mì luộc và một ít cơm. Tôi nhớ có
lần Anh Nguyễn Đức Nam ,
con ngưòi tài hoa phong nhã mới ở Liên xô về, anh Trương Chính, nhà nghiên cứu phê bình nổi tiếng và tôi đứng
chờ bà D chia cơm cho tập thể xong để xin một miếng cháy. Chấm thi tốt nghiệp cho năm thứ tư, anh em rang ít ngô để bồi duỡng. Đang chấm bài
thì báo động có máy bay địch. Tôi và anh
Nam
mỗi nguời vốc một nắm ngô rang xuống hầm. Chị Lê kể Anh Hoàng Dung ( Bí thư liên
chi đảng Khoa Văn ) ốm, anh em đến thăm. Anh Dung nói có ốm gì đâu bây giờ có
một bát phở là mình lành ngay. Kể dông dài một chút để thấy điều tôi linh cảm
trong buổi đầu vào nghề đã thành sự thật. Có những chuyện thật 100% bây giờ kể lại nghe như cổ tích. Nhưng điều quan trọng tôi muốn nóí là giờ đây, nhìn lại những buớc đuờng non 60 năm đã
qua, chúng tôi vẫn nuôi duỡng ấp iu ấn tuợng đẹp đẽ ban đầu về nghề nghiệp và càng
ngày càng yêu quí Khoa Văn và truờng Đại
học sư phạm Hà Nội, nơi đã giúp chúng tôi truởng thành. Trong đời dạy học của tôi, Khoa Văn Đại học sư phạm là nơi tôi gắn bó nhất. Thế là tôi đã
gắn bó với Khoa từ thời sinh viẻn trai
trẻ cho đến cả những ngày nghỉ chế độ.
Cho đến hôm nay, tôi vẫn còn làm việc ở trường , chưa có cảm giác là mình đã về
hưu. Các thầy giáo, các bậc sư biểu của tôi như thầy Đặng Thai Mai, Trần Văn Giàu, Cao Xuân Huy, Đào Duy Anh, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Lương Ngọc ... đã cho chúng tôi tri thức và đạo làm nguời. Các vị lãnh đạo nhà trường
như Thầy Nguyễn Lương Ngọc đạo cao đức trọng là tấm gương mẫu mực. Các anh Duơng
Trọng Bái, Phạm Quí Tư, chị Trần Thị Thục
Nga.. mỗi nguời một tính cách nhưng đều để lại những dấu ấn tốt đẹp cho cán bộ
chúng tôi. Tôi còn nhớ một hôm gió mùa Đông Bắc rất mạnh, trời rất rét. Tôi thấy anh Pham Qúi Tư
vẫn đạp xe ra Bộ họp. Tôi hỏỉ Anh sao không lấy ôtô truờng mà đi ? Anh
bảo :” Tôi đi xe đạp đựợc” . Dĩ nhiên hồi bấy giờ hoàn cảnh có khác nhưng xe
cho thủ truởng không phải không sẵn. Anh Tư luôn giữ gìn. Chuyện nhỏ nhưng làm
tôi suy nghĩ. Chủ nhiệm Khoa Lê Trí Viễn
nguời thầy vừa là nguời anh nghiêm khắc nhưng nhân hậu trong việc quản lí cán bộ. Tôi được học với Thầy Lê Trí Viễn những năm 50 ở lớp chuyên khoa. Thầy giảng bài văn tế Truơng Quỳnh Như trong
một lớp học bình dân học vụ với mấy cậu học trò trên đồi cọ đầy sên vắt ở chợ Bộng
nơi trường chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng sơ tán về đó. Tôi cũng đã đọc thơ văn
nhưng đến giờ giảng văn của thầy , tôi mới hiểu ra thế nào là cái kì diệu của văn
chưong và sức ấp dẫn của thầy giáo dạy văn. Thầy đọc, thầy ngâm, thấy rơi lệ, thầy sống say đắm với từng câu văn
và con nguời trong nỗi đau mất mát. Hình như những ấn tuợng ban đầu đó đã khơi dậy
trong tôi lòng yêu nghề giảng dạy văn chương. Các bậc đàn anh như Huỳnh Lí, Đái Xuân Ninh, Nguyễn Trác, mỗi nguời một vẻ đều là tấm gương
về phong cách sống của một trí thức, một nhà mô phạm. Anh Huỳnh Lí không phân biệt tuổi tác trong quan hệ. Gần anh bao giờ cũng được nghe
anh kể bao chuyện văn chương nhất là chuyện đời rất rí rỏm, rất ý vị. Có những
đêm sơ tán, anh kể chuyện vui cuời như pháo nổ . Anh Đái Xuân Ninh nổi tiếng là
chăm chỉ đọc sách. Ngồi nhà chỉ biết đọc. Chị Thêm vợ anh kể là quá trưa vợ con
chưa về anh cũng ngồi đọc. Nguyễn Trác là bậc đàn anh tài hoa hiền hậu, , khiêm
tốn, nói năng nhỏ nhẹ. Nhớ năm 1957, tôi cùng dạy Phổ thông 3 (Truờng Việt Đức
ngày nay ). Tôi nghe học trò kháo nhau là thầy Trác giảng bài văn nào cũng hay
cũng hấp dẫn. Có hôm nói với anh cho tôi mượn giáo án của anh để học tập. Anh
từ chối mãi, bảo không có gì đâu. Cuối cùng nể tôi , anh
cho mượn 5-6 giáo án của anh viết gọn trong một tờ giấy giang ( giấy thô ngày xưa
). Tôi đọc thấy sao súc tích gãy gọn nhẹ nhàng mà sâu sắc hấp dẫn thế . Còn tôi trưóc đó soan bài "Tuyên
ngôn độc lập" dài đến 15 trang giấy khổ
to. Tôi mới vỡ ra thế nào là soạn giáo án. Tôi trao đổi với anh, anh mỉm cưòi , tủm tỉm, rất hiền hậu . Nụ cuời
không bao giờ quên được. Anh Trương Chính
từng viết Duới mắt tôi ở tuổi 20 là tấm
gương
cần mẫn nghiên cứu cả một đời. Tôi ở Phan Đình Phùng . Anh Trương Chính ở Mạc Đĩnh
Chi nhưng có một căn phòng nhỏ ở hàng Phèn. Hàng ngày anh ra đó làm việc cần mẫn
như một công chức mẫu mực. Đều đặn buổi
sáng khoảng 7 giờ anh đi qua , trưa 11g về nhà. Chiều 2g lại đi, 5g chiều lại về nhà . Cứ thấy
anh Trương Chính đi qua là biết lúc đó mấy giờ. Anh sống và làm việc một cách
nề nếp. Dạo đi sơ tán ở Yên Mĩ , anh em phải tắm giếng cứ dội nước ào ào. Anh Truơng Chính bảo bọn tôi : " Các cậu không biết tắm , dội nhiều mà không sạch. Mỗi gáo dội vào chỗ nào là phải tính. Múc ít mà vẫn đủ “ . Anh cần kiệm không
tiêu pha. Nghĩ thương anh có đồng nhuận
bút nào gửi tiết kiệm cuối cùng đổi tiền hoá ra không. Tôi đã có bài viết về
anh Nguyễn Đức Nam một con người hào hoa
phong nhã hiểu biết rộng, ngoại ngữ tinh thông, tấm lòng với anh em rất rộng
rãi cởi mở luôn nâng đỡ cảm thông. Các anh là những tấm gương đẹp cho lớp trẻ
chúng tôi ….
60 năm qua, Khoa Văn Đại học sư phạm Hà Nội đã đào tạo cho nước nhà hàng vạn thầy giáo cô giáo dạy Văn. Đó
là lực lượng thầm lặng đưa ánh sáng văn hoá vào mọi miền của đất nuớc. Hàng mấy
trăm tiến sĩ và hàng ngàn thạc sĩ Ngữ văn đang là cốt cán khoa học của các truờng
Đại học Cao đẳng và một số cơ quan văn
hoá tư tuởng ở trung ương và địa phuơng. Khoa Văn Đại học sư phạm là khoa đàn anh của
các khoa Văn trong cả nước, là nôi đào
tạo cán bộ giảng viên cho cảc truờng Đại học và Cao đẳng. Trong chiến tranh, nhiều người đã
hi sinh vẻ vang cho nền độc lập của dân tộc . Thế hệ học trò
về sau có nhiều nguời đã làm sáng danh thêm cho Khoa như Phạm Tiến Duật , Ma Văn Kháng, Nguyễn Khoa Điềm, v.v…
Khoa Văn Sư phạm Hà Nội có nhiều duyên nợ với Hội nhà
văn VN. Các nhà văn tên tuổi như Đăng Thai Mai, Hoài Thanh, Trương Tửu , Nguyễn Lương Ngọc … vốn
là giảng viên của Khoa. Các nhà văn lớn như Tố Hữu , Nguyễn Đình Thi, Huy Cận, Xuân Diệu, Tô Hoài ... đều có giao lưu với sinh viên các khoá. Khoa văn Sư
phạm coi đó là mối quan hệ truyền thống quí
báu giữa các nhà văn với các thầy cô giáo dạy văn , những nguời làm cầu nối đẹp đẽ gi]ã các tác giả với hàng triệu bạn đọc trẻ.
Khoa Văn Đại học sư phạm Hà Nội cũng có muơi hội viên Hôi Nhà văn VN và cũng đã
có những đóng góp đáng kể cho phong trào chung. Nhiều giảng viên của Khoa là
những cây bút quen thuộc của báo Văn nghệ, Tạp chí Văn học …
Có được thành công
60 năm qua là nhờ công sức của các bậc sư biểu hiếm có trong lịch sử, không có thầy giỏi không có trò giỏi ; là nhờ nỗ lực của các lớp sinh viên một lòng tận
tuỵ với sự nghiệp trồng nguời đem ngọn lửa tình yêu văn chương gieo cho các thế
hệ học sinh, là nhờ Khoa Văn Đại học sư phạm Hà Nội là một môi trường làm việc đoàn kết nhân văn rộng
mở khá thuân lợi cho sự phảt triển tài năng
và nhân cách người trí thức . GS- NGND Nguyễn Hải Hà từ khi ra trường năm 1957 đến
khi về hưu cả một đời đã gắn bó với Khoa Văn Truờng Đại học sư phạm Hà Nội , có
một câu đúc kết khá tiêu biểu “ Khoa Văn là một khoảng trời yên tĩnh .. Đại học sư phạm
sao mà yêu mà quí . Ôi tuyệt vời Khoa Văn
…”
P.T.
L
Chúc Giáo Sư NGND Phan Trọng Luận về cõi bình yên, miền cực lạc đẹp tươi.
Trả lờiXóaCám ơn bác VanPham. Tôi cũng cầu chúc như vậy cho anh linh của Giáo sư Phan Trọng Luận!
XóaCầu chúc cho giáo sư Phan Trọng Luận về miền cực lạc được siêu thoát, xin chia buồn cùng gia quyến
Trả lờiXóaCám ơn bạn đã chia sẻ!
Xóa