HIỆN TƯỢNG CA DAO
TIẾP BIẾN - ĐỒNG HÓA THƠ,
NGHĨ TỪ BÀI MÂY VÀ BÔNG CỦA NGÔ VĂN PHÚ
Tặng cô giáo HQ, trường THCS CVA QTH, HN
ĐƯỜNG VĂN
Hiện tượng văn học lý thú này đã có từ
lâu và thi thoảng lại xảy ra trong đời sống văn nghệ cũng như trong dân gian.
Nó đem lại bao nhiêu ngạc nhiên, bất ngờ, thú vị cho người đọc (nghe). Chẳng
hạn, từ khoảng thế kỷ 19, những câu thơ lục bát mượt mà, đài các, uyên ảo của
cụ nghè Vân Đình Dương Khuê (bạn thân
cụ Tam Nguyên Nguyễn Khuyến) hay là của cụ Á
Nam Trần Tuấn Khải (?!):
Gió đưa cành
trúc la đà…
Nhịp chày Yên Thái,
mặt gương Tây Hồ.
đã lặng lẽ nhập vào kho tàng ca dao Hà Nội một cách hết sức ngọt ngào. Bài ca dao cổ: Cày đồng đang buổi ban trưa… Dẻo thơm một
hạt, đắng cay muôn phần, theo nhà phê bình thơ trứ danh Hoài Thanh, lại là
1 bản dịch thơ lục bát của một nhà
thơ Việt Nam
nào đó, chuyển mã ngôn ngữ một bài thơ Đường luật ngũ ngôn của Lý Thương Ẩn
(Trung Quốc) từ cách đó cả ngàn năm! Đến
những năm 30 – 40, thế kỷ 20, hai câu ca
dao giao duyên nổi tiếng tình tứ, ỡm ờ:
Hỡi cô tát
nước bên đàng!
Sao cô múc
ánh trăng vàng đổ đi?!
Hóa ra vốn là 2 câu trong 1 bài thơ khá dài của nhà
Thơ Mới quê Bắc Giang: Bàng Bá Lân. Vào
khoảng những năm 1945 – 1946 – 1947, hai câu thơ tuyệt bút mà cực kỳ giản dị
của nhà thơ Nam Bộ Bảo Định Giang: Tháp Mười đẹp nhứt bông sen/Nước Nam đẹp
nhứt có tên Cụ Hồ đã trở thành hai câu ca
dao Nam Bộ lưu truyền trong dân gian rộng rãi khắp lục tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, 12 tỉnh lưu vực sông Đồng Nai…, ra
miền Trung, miền Bắc, rồi mau chóng trở thành một trong những bài ca dao mới
hay nhất, đẹp nhất, ân tình nhất tụng ca
đất nước Việt Nam, con người Việt Nam bằng 2 hình ảnh hiện thực - biểu tượng:
hoa sen Đồng Tháp Mười và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại:
Tháp Mười đẹp
nhất hoa sen!
Việt Nam đẹp
nhất có tên Bác Hồ!
Rất
nhiều bà mẹ nông dân Việt Nam
ở cả 3 miền ru con, ru cháu bằng câu thơ Tố Hữu:
Bầm ra ruộng
cấy bầm run,
Chân lội dười
bùn, tay cấy mạ non…
Mạ non, bầm
cấy mấy đon,
Ruột gan bầm
lại thương con mấy lần!
(Bầm
ơi! 1947)
mà cứ
ngỡ mình đang ru trẻ bằng ca dao thứ thiệt!...
Bất kỳ
nhà thơ Việt Nam nào, dù tiếng tăm lừng lẫy đến đâu hay chưa kịp xây dựng được thương hiệu cho mình mà may mắn một lần
được dân gian để mắt tới thơ mình, rồi nhập
nó vào kho tàng ca dao dân gian dân tộc, đem truyền miệng khắp nơi, thì quả là một hạnh phúc vô bờ, suốt đời không dám mơ! Ở nước ta: Nguyễn Du, Tản Đà, Nguyễn Bính, Tố Hữu, Trần
Đăng Khoa, Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn,
Phạm Công Trứ… là những nhà thơ được Trời ban cho ít nhiều niềm vinh hạnh vô
cùng lớn lao ấy. ..
Ngô
Văn Phú, từ năm 1961, khi vừa tốt nghiệp khoa Văn trường Đại học Tổng
hợp Hà Nội, với bài thơ lục bát 4 câu Mây
và bông, thuộc loại đầu tay, trình
làng văn nghệ, lạ kỳ thay, cũng được lọt vào mắt xanh của người đọc – nghệ sỹ dân gian. Chẳng bao lâu sau, cả
ngàn, vạn, triệu người đọc Việt Nam, ngay cả ở vùng trung du Vĩnh Phúc (quê
hương tác giả) cũng quên luôn họ tên
người viết. Người ta cứ đinh ninh rằng đó là 1 bài ca dao Bắc bộ thứ thiệt; mà tác giả của nó, hiển nhiên phải là tập thể nhân dân lao động nghèo khổ, cần cù
và thông minh. Bài thơ đã nằm trong (thuộc về) quy luật đồng hóa – tiếp biến
của văn học dân gian (ca dao). Trong
1 thời gian (có thể dài, ngắn khác nhau, một vài tháng hoặc vài năm gì đó…) tập
thể nhân dân đã kịp xóa tên tác giả hữu danh có thực khỏi trí nhớ và sự tò mò
của người đọc, biến nó trở thành sáng tác của tập thể nhân dân lao động, đem
truyền miệng khắp nơi nơi. Trong quá trình giao lưu, truyền bá ấy, một số người
đọc (nghe) lại tự ý gia công sửa chữa,
thêm thắt 1 vài từ ngữ, hình ảnh theo ý mình thành những dị bản khác nhau (đại đồng tiểu dị).
Chẳng hạn:
Trên trời,
mây trắng như (tựa) bông,
Ở (bên, phía)
dưới, cánh đồng: bông trắng như (tựa) mây.
Ba (có,
những, dăm, mấy) cô má đỏ hây hây,*
Đội bông như
thể (chẳng khác) đội mây về (vào) làng.
Mãi về
sau này, nhà thơ – nhà văn – nhà báo Ngô Văn Phú mới được biết câu chuyện hi
hữu này. Và ông chỉ còn biết rưng rưng cảm động tạ ơn Trời - Phật đã rộng rãi
ban cho mình một ân sủng duy nhất, ngoài
sức tưởng tượng.
Nhưng
vì sao Mây và bông cũng như một
số ít bài thơ có tên tuổi đã dẫn
trên (trong số cả triệu bài thơ lục bát trữ tình dân tộc) lại được nhân dân đặc
biệt ưu ái và đồng hóa - tiếp biến,
làm thủ tục cho nhập tịch làng ca dao
dân gian Việt? Theo sự tìm hiểu còn hạn hẹp của kẻ viết bài này, có thể xuất
phát từ tổng hợp những nguyên nhân – 4 sự đồng
điệu sau:
1. Đồng điệu cao
về đề tài, chủ đề tư tưởng, đặc biệt là tình cảm, cảm xúc, cảm hứng…
Ca ngợi vẻ
đẹp thiên nhiên (mây trắng trên trời xanh), kết quả lao động cần cù của
con người (cánh đồng bông trắng xóa),
vẻ đẹp con người (thiếu nữ): (má đỏ hây
hây) trong lao động nông nghiệp: thu hoạch bông (đội bông về làng); qua
đó, thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu người, quý trọng thành quả lao
động… Thi vị hóa, nên thơ hóa, lãng mạn hóa vẻ đẹp của thiên
nhiên, con người, lao động…
Đề tài, chủ
đề tư tưởng, cảm hứng, bút pháp Ngô Văn Phú ngẫu
nhiên trùng hợp lạ lùng với đề
tài, chủ đề tư tưởng, cảm hứng, bút pháp của ca dao dân gian cổ truyền: mộc
mạc, giản dị, trong sáng.
Đó là nguyên nhân đầu tiên và cốt lõi để bài thơ trữ tình bốn câu
nhanh chóng được trao quyền có hộ khẩu
bìa đỏ trong làng ca dao trữ tình dân tộc.
2. Đồng điệu về thể
thơ, vần và nhịp:
Cùng
sử dụng thể thơ lục bát dân tộc. Thể
thơ phổ biến nhất của ca dao truyền thống, với cách gieo vần bằng, chân, lưng phối hợp, tạo nên nhịp
điệu nhịp nhàng, đều đặn, duyên dáng khó quên. Toàn bộ bài thơ là nhịp chẵn:
- Câu 1: 2/2/2; - Câu 2: 2/2/2/2/; - Câu 3: 2/2/2/; - Câu 4: 2/2/2/2.
So với 1 bài
ca dao xịn quen thuộc:
Trên trời/ có
đám/mây xanh,
Ở giữa/mây
trắng/chung quanh/mây vàng.
Ước gì/anh
lấy/ được nàng
Để anh/mua
gạch/Bát Tràng/ về xây…
Thấy nhịp điệu cũng tương tự.
Hoặc gieo vần chân - lưng từ tiếng thứ 6 câu 6 (1)
đổi sang tiếng thứ 4 (câu 8 (2); tiếp câu 6 (3) – 8 (4): lại trở về gieo vần
như cũ (8(2)/6(3)/6 (4)/):
Trên trời,
mây trắng như bông (VBC)/
Ở dưới, cánh đồng (4), VBL), bông trắng như
mây.
Tương tự bài
ca dao cổ:
Mồ hôi mà đổ
xuống đồng (VBC),
Lúa mục trùng
trùng (4), VBL) sáng cả đồi
nương.
3. Đồng điệu về môtip
mở đầu:
Trên trời, ở dưới (ở giữa):
- Trên trời, có đám mây xanh/Ở
giữa, mây trắng…/
- Trên trời, có vẩy tê tê/
4. Đồng điệu về biện
pháp tu từ:
So sánh (tỷ) là một trong những biện pháp tu từ ngôn ngữ hàng đầu
của ca dao dân gian Việt Nam
(phú, tỷ, hứng). So sánh trực tiếp, đơn giản, đối ứng:
+ Mây trắng như
bông/à Bông trắng
như mây (so sánh màu sắc (tính từ trắng)
ngang bằng)
+ Đội bông như
đội mây (so sánh động tác làm việc
(động từ đội); so sánh ngang bằng).
* Ý nghĩa phái sinh: đội bông - đội mây - đội trời – con gái đội trời (liên hệ hình
tượng thần thoại TQ: Nữ Oa vá trời;
thơ Trần Đăng Khoa: Bố em đi cày về/Đội sấm, đội chớp, đội cả trời mưa (Mưa);
sức trẻ, sức mạnh của con người phụ nữ lao động mới khi được giải phóng tư
tưởng. (Lê Dụ góp thêm)
Kết quả của 3 so sánh (liên tiếp (câu 1 , 2) và cách quãng (câu 4) trong bài thơ – ca dao này đã góp phần tạo nên sự hài hòa màu sắc (hòa sắc), tạo hình tuyệt
đẹp trong bức tranh thiên nhiên – cuộc sống con người:
-
Hòa sắc trắng (trắng bông, trắng mây – trắng
làn da các cô gái) - xanh (bầu
trời, mái tóc (xanh đen).
-
Hòa sắc trắng (nt) – hồng (má đỏ hây hây)
-
Tạo nên cảm giác
tươi sáng, trong trẻo, nhẹ nhàng, đầy sức trẻ và niềm vui trong lao động thời
vụ nông nghiệp: thu hoạch bông.
-
Bởi thế, có thể
ví Mây và bông như một bức tranh lụa nuột nà, giản phác mà sang
trọng, dịu dàng mà tươi tắn, mát mẻ và ấm áp, đầy sức gợi những cảm xúc trong sáng, khỏe khoắn và hào hứng
nơi người nghe (đọc, xem)… Bài thơ – ca
dao – tranh lụa được vẽ bởi bàn tay họa
sỹ - thi sỹ - nghệ sỹ tài hoa, trí - hồn trẻ tráng, thắm thiết tình yêu
thiên nhiên, đất nước quê hương; yêu cuộc đời cần lao, nhũn nhặn và con người Việt
Nam bình dị.
… Với bấy
nhiêu lý do, liệu đã đủ để tạo thành nguồn
xung lực nhẹ nhàng đến gần như tự nhiên, tất nhiên, biến bài thơ đầu tay Trời cho của cây bút trẻ
Ngô Văn Phú trở thành một trong những bài
ca dao Việt Nam, đậm chất ca dao
nhất, từ nội dung tư tưởng đến hình thức nghệ thuật? khiến cho nó hội đủ nội
lực và tiềm lực để sống mãi trong lòng các thế hệ người đọc (nghe) hôm qua, hôm
nay và ngày mai./.*
*
Theo Nguyễn Khôi câu thứ 3 này, NVP mượn từ câu thơ của nhà thơ Bàng Bá Lân,
thầy dạy ông hồi năm 1952 – 1953 ở Phúc Yên: Mấy cô má đỏ hây hây/Nghiêng mình
kéo nước giếng xây đầu làng (Năm xưa). Không biết NVP đã đọc bài viết này chưa?
* Về sự cảm nhận cái hay, vẻ đẹp độc đáo của
bài thơ –-> ca dao Mây và bông: Học
sinh có thể trình bày thoải mái, tùy theo cảm nhận, suy nghĩ, liên tưởng và
tưởng tượng riêng của mình kết hợp với việc đọc, tham khảo những gọi ý trong
bài viết trên.
Chiều 12 – 4 – 2015. ĐV
Bạn Đường Văn, cộng tác viên lâu năm của trang Vũ Nho Ninh Bình. Chúng tôi tôn trọng văn bản của tác giả nên không "can thiệp" vào những nhận định và đánh giá ( Trừ trường hợp bất khả kháng do lỗi vi tính). Bài viết này cũng vậy. Tuy nhiên có điểm cần lưu ý tác giả và bạn đọc: Lí Thương Ẩn, nhà thơ đời Đường Trung Quốc ( 813-818). Ông ta không làm bài thơ nào tựa như nội dung bài ca dao Cày đồng. Người có bài tương tự là Lí Thân ( 740 -846) với bài thơ Cổ phong (nhị thủ) mà người ta cứ cho là ai đó đã dịch thành Cày đồng... ( bài thứ nhất). Nguyên văn chữ hán : Sừ hòa nhật đương ngọ/ Hãn trích hòa hạ thổ/ Thùy niệm ( tri) bàn trung xan/ Lạp lạp giai tân khổ ( Xới lúa giữa ban trưa/Mồ hôi rỏ thấm đất dưới chân lúa/ Nào ai nghĩ bữa ăn trên mâm/ Mỗi hạt cơm là bao niềm cay đắng). Về bài thơ và bài ca dao có 3 khả năng: 1. Bài ca dao ra đời sớm hơn, Lí Thân học mót ca dao Việt Nam. 2. Bài thơ Lí Thân có trước, người Việt phóng tác ( Không gọi là dịch vì một bên là Xới lúa, bên Việt là Cày đồng...). 3. Đó chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên, không ai đọc và dich hoặc học của ai. Bởi vậy ông nào Việt Nam nói chúng ta dịch là thiếu căn cứ và sẵn tinh thần sùng ngoại vô lối. Chúng tôi thấy cần trao đổi lại với tác giả ĐV một chuyện này thôi. Các chuyện khác, bàn sau.
Trả lờiXóaVũ Nho đính chính, chính sác !
Trả lờiXóaCám ơn bạn đã chia sẻ. Tôi không đính chính. Bởi vì bạn Đường Văn có thể theo một nguồn tư liệu khác. Còn tôi theo cuốn Thơ Đường tập I, nxb Văn Học, HN, 1987.
XóaChỉ là trao đổi để không gây hiểu lầm thôi.